phương thức để Viện kiểm sát bảo vệ quyền của con người (của người bị tạm giữ, tạm giam), góp phần phục vụ có hiệu quả cho công tác khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án.
Trong quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, khi phát hiện thấy có dấu hiệu của việc bắt giam không có căn cứ và trái pháp luật, Viện kiểm sát có quyền ra quyết định trả tự do cho người bị giam, giữ và cải tạo không có căn cứ và trái pháp luật. Đó là các trường hợp: Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp mà một người vẫn bị tạm giữ; người bị tạm giữ không có quyết định của cơ quan và người có thẩm quyền; người bị tạm giữ đã được Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định tạm giữ nhưng vẫn bị tạm giữ, người bị tạm giữ đã có quyết định trả tự do; người mà Viện kiểm sát không phê chuẩn gia hạn tạm giữ, người đã hết thời hạn tạm giữ mà không có quyết định hợp pháp nào khác nhưng vẫn bị giữ; người bị tạm giam nhưng không có lệnh hoặc lệnh không có phê chuẩn của Viện kiểm sát; người bị tạm giam mà Viện kiểm sát quyết định không gia hạn tạm giam; người đã có quyết định huỷ bỏ việc tạm giam; người đã có quyết định trả tự do hoặc áp dụng biện pháp ngăn chặn khác; người đã có quyết định đình chỉ điều tra hoặc quyết định đình chỉ vụ án mà không bị giam giữ về hành vi phạm tội khác. Khi thực hiện công tác kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, nếu phát hiện có dấu hiệu tội phạm trong việc quản lý giam giữ thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự để tiến hành điều tra theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Bộ luật tố tụng hình sự 1988 là bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những quy định của Bộ luật đã tạo cơ sở pháp lý tố tụng hình sự cho Viện kiểm sát nhân dân thực hiện việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, phù hợp với mục tiêu cách mạng trong giai đoạn này.
Chương 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VÀ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG GIAI ĐOẠN KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
2.1. Những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố - điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan duy nhất được giao thực hiện hai chức năng là chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
1. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án.
2. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này [45, Điều 23].
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo Đảm Quyền Con Người Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra Các Vụ Án Hình Sự
- Vai Trò Bảo Đảm Quyền Con Người Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Giai Đoạn Khởi Tố Vụ Án Hình Sự
- Giai Đoạn Từ 1960 Đến Trước Khi Bltths 1988 Ra Đời
- Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân - 8
- Về Mối Quan Hệ Giữa Viện Kiểm Sát Nhân Dân Và Cơ Quan Điều Tra Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra Vụ Án Hình Sự
- Kết Quả Kiểm Sát Giải Quyết Tố Giác, Tin Báo Về Tội Phạm Trong Giai Đoạn Khởi Tố Vụ Án Hình Sự 05 Năm (2010-2014)
Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.
Theo quy định trên, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; đồng thời kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Hai chức năng này vừa có tính độc lập tương đối, vừa quan hệ chặt chẽ, tác động quan lại, bổ sung lẫn nhau, không tách rời nhau. Chính đặc điểm đó đã tạo nên tính thống nhất trong chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự.
Hoạt động công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật được thực hiện ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự. Với chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm bảo đảm mọi hành vi phạm tội được phát hiện, đều phải được khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; việc điều tra được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật. Nói cách khác, thông qua việc phòng, chống oan, sai, bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, Viện kiểm sát nhân dân là một thiết chế bảo đảm quyền con người một cách có hiệu quả trên cả hai phương diện là: bảo đảm quyền con người được thực hiện trên thực tế và ngăn chặn, xử lý đối với những hành vi vi phạm quyền con người của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
2.1.1. Hoạt động bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự
Khởi tố vụ án hình sự là thủ tục pháp lý đầu tiên, là cơ sở pháp lý để cơ quan điều tra bắt đầu tiến hành các hoạt động điều tra, thực hiện quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện tội phạm đó.
Theo quy định tại Điều 100 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, chỉ khởi tố vụ án hình sự khi xác định sự việc phạm tội đáp ứng những dấu hiệu tội phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự. Trong nhiều trường hợp, tuy chỉ xác định được sự việc có dấu hiệu tội phạm mà chưa biết được người thực hiện tội phạm cụ thể, nhưng vẫn cần khởi tố vụ án hình sự để tiến
hành hoạt động điều tra nhằm tìm ra người phạm tội và làm sáng tỏ nội dung của vụ án. Vì vậy, khi có căn cứ để xác định dấu hiệu của tội phạm, phải khẩn trương khởi tố vụ án hình sự. Các cơ quan có thẩm quyền được khởi tố vụ án hình sự bao gồm:
+ Cơ quan điều tra nơi tội phạm được thực hiện hoặc bị phát hiện;
+ Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, Cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong những trường hợp quy định tại Điều 111 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
+ Viện kiểm sát nhân dân ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ quan nêu trên và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án;
+ Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu Viện kiểm sát khởi tố vụ án nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần được điều tra.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 103 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, giai đoạn khởi tố được bắt đầu bằng việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác giải quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Để đảm bảo mọi tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố được cơ quan điều tra tiếp nhận đầy đủ, xác minh tính khách quan, giải quyết đúng pháp luật, thì Viện kiểm sát phải cử kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ ngay từ khâu tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là 20 ngày kể từ khi nhận được các tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đó, trong trường hợp sự việc phức tạp có thể được gia hạn, nhưng không quá hai tháng. Trong thời hạn nói trên, tùy thuộc vào tính chất phức tạp của các thông tin đầu tiên về việc thực hiện hành vi phạm tội đã được tiếp nhận, thụ lý, các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm phải phân loại, giải quyết. Do đó, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, phải yêu cầu cơ quan điều tra cùng cấp thông báo đầy đủ về số lượng, nội dung các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố mà cơ quan điều tra đã tiếp nhận, đồng thời phối hợp để phân loại xử lý và kiểm sát kết quả giải quyết. Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát thực hiện các nhiệm vụ: Kiểm sát việc kiểm tra, xác minh nguồn tin của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; Kiểm sát việc lập hồ sơ giải quyết và kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố. Nếu phát hiện có tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố đã tiếp nhận chưa được giải quyết theo thời hạn luật định thì yêu cầu cơ quan điều tra khắc phục vi phạm bằng việc yêu cầu cơ quan điều tra nêu rò lý do để tin quá hạn, hướng giải quyết và thông báo kết quả cho Viện kiểm sát.
Có thể nói, việc Viện kiểm sát kiểm sát quá trình tiếp nhận, phân loại xử lý và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan điều tra là một việc làm cần thiết. Bởi tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là đầu mối, căn cứ đầu tiên để cơ quan điều tra tiến hành thẩm tra, xác minh, từ đó xác định có hành vi phạm tội hay không. Việc Viện kiểm sát nhân dân tiến hành kiểm sát chặt chẽ trong giai đoạn này, sẽ giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử đạt hiệu quả, có chất lượng, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, đảm bảo việc khởi tố, không khởi tố vụ án và các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra có căn cứ, đúng pháp luật nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội. Bên cạnh đó, còn
bảo vệ được các quyền và các lợi ích hợp pháp của công dân bị tội phạm xâm hại, góp phần bảo đảm quyền con người.
Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là việc cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc không khởi tố vụ án hình sự. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chỉ có Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, trong đó quyết định khởi tố vụ án hình sự chính là sự bắt đầu của quyền công tố. Do đó, mọi quyết định khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan nói trên chỉ thực sự có hiệu lực sau khi đã được Viện kiểm sát nhân dân xem xét, quyết định. Khoản 3 Điều 104 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định: Quyết định khởi tố kèm theo tài liệu liên quan đến việc khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi tới Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố; Quyết định khởi tố của Hội đồng xét xử phải được gửi tới Viện kiểm sát nhân dân để xem xét quyết định việc điều tra. Yêu cầu khởi tố của Hội đồng xét xử được gửi cho Viện kiểm sát xem xét, quyết định việc khởi tố. Điều đó có nghĩa là, xét đến cùng, việc khởi tố hay không khởi tố là do cơ quan thực hành quyền công tố quyết định. Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự không có căn cứ, không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự thì Viện kiểm sát nhân dân, với tư cách là cơ quan thực hành quyền công tố, chịu trách nhiệm trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm và người phạm tội, có quyền và trách nhiệm phải hủy bỏ các quyết định đó.
Trong trường hợp phát hiện có tội phạm mà cơ quan được quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án thì Viện kiểm sát có quyền và trách nhiệm hủy bỏ quyết định không khởi tố vụ án đó và ra quyết định khởi tố vụ án. Trường hợp quyết định khởi tố vụ án của Hội đồng xét xử không có
căn cứ, Viện kiểm sát có quyền kháng nghị lên Tòa án cấp trên theo quy định tại Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Đối với những trường hợp khác, Viện kiểm sát có quyền yêu cầu khởi tố hoặc tự mình khởi tố vụ án và chuyển đến Cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo quy định tại Điều 36 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Bên cạnh đó, khi thực hiện chức năng của mình trong giai đoạn này, Viện kiểm sát còn có quyền yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, nếu có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố không đúng với tội phạm đã xảy ra hoặc còn có tội phạm khác. Sau khi yêu cầu mà cơ quan điều tra không thực hiện thì Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong thời hạn 24 giờ phải gửi các quyết định đó cho cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Nếu thấy quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án của cơ quan đã ra quyết định không có căn cứ thì Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan đó quyết định hoặc trực tiếp quyết định hủy bỏ quyết định đó.
Như Chương I của luận văn đã phân tích, trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng được phép thực hiện một số hoạt động điều tra trong trường hợp cần thiết, trong đó có việc ra lệnh bắt khẩn cấp, tạm giữ đối tượng bị tình nghi thực hiện tội phạm. Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong việc bắt, tạm giữ. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân có quyền quyết định trả tự do ngay cho người bị tạm giữ trong các trường hợp sau: Viện kiểm sát nhân dân không phê chuẩn việc bắt khẩn cấp mà vẫn tạm giữ; người bị tạm giữ không có lệnh của cơ quan và người có thẩm quyền; người đã được Viện kiểm sát hủy bỏ lệnh tạm giữ nhưng vẫn bị giữ; người bị tạm giữ đã có quyết định trả tự do.
Như vậy, trong bộ máy nhà nước của nước ta, chỉ có Viện kiểm sát mới là cơ quan có quyền thực hành quyền công tố, có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận quyết định khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền; Quyền yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rò tội phạm xảy ra; quyền yêu cầu cơ quan điều tra khởi tố vụ án, đặc biệt là có quyền trực tiếp khởi tố vụ án hình sự và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành các hoạt động điều tra; và quyền trả tự do ngay cho người bị bắt, bị tạm giữ không có căn cứ, trái pháp luật. Thông qua các quyền năng pháp lý đó, một mặt, Viện kiểm sát đề cao trách nhiệm của cá nhân và cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khởi tố vụ án hình sự, tạo cơ sở pháp lý chắc chắn, bảo đảm thực hiện quyền công tố của Viện kiểm sát ở giai đoạn sau một cách chính xác, khách quan. Mặt khác, Viện kiểm sát có sự chủ động trong việc bảo đảm quyền con người của người bị bắt, và những người tham gia tố tụng khác.
2.1.2. Hoạt động bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Bằng việc Viện kiểm sát nhân dân chấp nhận quyết định khởi tố vụ án hình sự của cơ quan điều tra, giai đoạn điều tra chính thức được bắt đầu. Trong giai đoạn này, cơ quan điều tra được phép áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, kể cả biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế nhà nước, hạn chế hoặc tước bỏ tự do của người thực hiện hành vi phạm tội, nhằm xác định tội phạm và người phạm tội để làm căn cứ giải quyết vụ án. Kết quả của hoạt động điều tra, là cơ sở để Viện kiểm sát nhân dân quyết định truy tố đúng người, đúng pháp luật, tòa án nhân dân xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát nhân dân bảo đảm việc điều tra của cơ quan điều tra được khách quan, toàn diện và đầy đủ; bảo đảm các quyền của người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng có