định một cách tương đối chặt chẽ về thẩm quyền bắt. Chính điều này đảm bảo quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra, góp phần giảm bớt sự vi phạm quyền con người của người bị bắt.
Thứ ba,bảo đảm quyền con người của người bị bắt bằng việc quy định trình tự, thủ tục bắt người. Việc đảm bảo quyền con người của người bị bắt mang tính toàn diện nếu đảm bảo được cả yếu tố tuân thủ chặt chẽ quy định về trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người.
- Đối với trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can để tạm giam trong giai đoạn điều tra, BLTTHS đã quy định chặt chẽ các thủ tục bắt người này. Khoản 2 Điều 80 BLTTHS quy định trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp bắt bị can để tạm giam. Lệnh bắt bị can để tạm giam phải là lệnh viết, lệnh phải ghi rò ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ người ra lệnh, họ tên, địa chỉ của người bị bắt, lý do bắt. Lệnh phải được người ra lệnh ký đóng dấu. Những lệnh phải phê chuẩn thì phải có mục phê chuẩn của VKS, ghi rò số, ngày, tháng, năm phê chuẩn, họ tên, chữ ký của người phê chuẩn và phải có đóng dấu. Tóm lại, lệnh bắt bị can để tạm giam ngoài hình thức thể hiện đặc thù như tên gọi ra còn phải được thể hiện dưới thể thức văn bản pháp lý nhà nước.
Người được giao chủ trì thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam phải chuẩn bị phương tiện, bố trí lực lượng, phải có sự tham dự của các thành phần bắt buộc. Đảm bảo cho việc bắt được an toàn, nghiêm túc, thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, quyền uy của Nhà nước, lệnh bắt phải được đọc công khai, phải có sự giải thích lệnh cho người bị bắt biết. Việc bắt người phải được lập biên bản ghi rò ngày, giờ, tháng năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản. Những việc đã làm, tình hình diễn biến khi thi hành lệnh bắt, thái độ chấp hành của người bị bắt, người liên quan. Ghi rò những đồ vật, tài liệu bị thu
giữ, (ghi đủ số lượng, còn cụ thể phải lập biên bản riêng), những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải ghi đầy đủ, tỉ mỉ tránh việc bắt người có nhiều nội dung, tình huống nhưng không ghi hết hoặc ghi quá vắn tắt theo mẫu biên bản in sẵn, gây khó khăn cho việc giải quyết về sau, không có điều kiện khắc phục. Biên bản lập xong được đọc công khai cho các thành phần có mặt nghe, các ý kiến bổ sung phải được ghi lại đầy đủ. Người bị bắt và các thành phần tham gia phải ký xác nhận vào biên bản.
Ngoài ra để đảm bảo quyền của người bị bắt trong giai đoạn điều tra, đồng thời tránh tình trạng bắt người bừa bãi, cơ quan điều tra áp dụng biện pháp bắt người có hành vi vi phạm thì BLTTHS còn quy định trường hợp bắt người này cần phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền địa phương. Đại diện chính quyền địa phương tham gia với tư cách là người quản lý về nhân hộ khẩu của người bị bắt trong địa bàn của mình quản lý. Gắn trách nhiệm của chính quyền địa phương với việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, đồng thời sự có mặt của chính quyền địa phương sẽ hỗ trợ, giúp sức khi cần thiết để việc thi hành lệnh bắt được thuận lợi.
Sự có mặt của người láng giềng chứng kiến có ý nghĩa đảm bảo việc bắt người được công khai, dân chủ, đồng thời tăng cường tính giáo dục, tuyên truyền pháp luật. Đồng thời đây là biện pháp để ngăn chặn tình trạng vi phạm quyền con người của người bị bắt.
Bên cạnh đó, để đảm bảo triệt để quyền con người của người bị bắt, cũng như xuất phát từ tính chất của biện pháp bắt bị can để tạm giam không mang tính chất cấp bách như bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc bắt người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người bị bắt, của thân nhân, của cơ quan tổ chức nơi người đó làm việc, tránh gây căng thẳng do việc bắt người gây ra, khoản 3 Điều 80 BLTTHS quy định: "Không được bắt người vào ban đêm..." [28].
Ban đêm được tính từ 22 giờ tối hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau, điều đó có ý nghĩa là chỉ được bắt bị can, bị cáo để tạm giam từ 6 giờ đến 22 giờ [28]. Ngoài thời gian đó mà tổ chức bắt bị can để tạm giam là vi phạm thủ tục TTHS. Người bị bắt và công dân có quyền phản đối. Người ra lệnh và thi hành lệnh mà cố ý làm trái quy định, vi phạm pháp luật có thể bị xử lý về hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Đối với trường hợp bắt người khẩn cấp. Điều 81 BLTTHS đã quy định thủ tục bắt khẩn cấp. Thủ tục này có điểm khác so với biện pháp bắt bị can để tạm giam. Thủ tục bắt người trong trường hợp khẩn cấp giống như trong trường hợp bắt bị can để tạm giam. Tuy nhiên, quy định này trên thực tế chỉ có thể áp dụng được đối với trường hợp địa bàn khu dân cư, có chính quyền địa phương còn đối với trường hợp xảy ra trên máy bay tầu biển thì không thể có đại diện chính quyền, người láng giềng của người bị bắt chứng kiến được. Hơn nữa đòi hỏi phải có lệnh đúng quy định của pháp luật theo tôi khó có thể thực hiện được. Tuy nhiên, nếu trong trường hợp đặc biệt khẩn cấp thì ngay sau khi bắt phải đưa ngay về trụ s công an gần nhất để lập biên bản. Phải có đại diện chính quyền xã phường thị trấn s tại chứng kiến việc lập biên bản và ký xác nhận.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Bắt Trong Giai Đoạn Điều Tra Hình Sự Trong Pháp Luật Quốc Tế Và Pháp Luật Một Số Nước
- Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Về Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Bắt Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự
- Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Bắt Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự Qua Các Quy Định Về Biện Pháp Ngăn Chặn Bắt Người
- Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Bắt Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự Qua Các Quy Định Địa Vị Pháp Lý
- Nguyên Nhân Của Những Tồn Tại, Hạn Chế
- Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Về Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Bắt Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Do tính chất của việc bắt khẩn cấp cho nên khác với bắt bị can để tạm giam là việc bắt khẩn cấp có thể được tiến hành vào ban đêm, song cũng phải đảm bảo thủ tục bắt người theo quy định của luật. Việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp có thể áp dụng vào ban đêm có nguy cơ xâm phạm tới các quyền cơ bản của người bị bắt. Tuy nhiên do tính chất cấp bách của biện pháp này mà có thể bắt ban đêm những cần đảm bảo chặt chẽ thủ tục bắt. Điều này cũng là những đảm bảo pháp lý về quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, xuất phát từ tính chất của biện pháp ngăn chặn bắt người này là cấp bách nên khi bắt khẩn cấp không đòi hỏi phải có sự phê chuẩn của VKS. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền con người của người bị bắt khẩn cấp, đảm bảo việc bắt là có căn cứ và đúng pháp luật, ngay sau khi bắt người cơ quan ra lệnh bắt phải báo ngay cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo các tài liệu có liên quan đến việc bắt khẩn cấp để VKS nghiên cứu, xem xét và phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, viện kiểm sát phải ra lệnh phê chuẩn hoặc không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phảu trả tự do ngay cho người bị bắt. Điều này cũng là quy định quan trọng để đảm bảo quyền con người của người bị bắt. Tránh tình trạng các cơ quan điều tra tiến hành bắt người một cách bừa bãi, lạm dụng bắt khẩn cấp mà không bị giám sát b i VKS.
- Đối với trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Đây là các trường hợp bắt rất đặc thù, tính chất của nó là trường hợp bắt mang tính thời điểm do đó không cần lệnh bắt là bất kì ai cũng có quyền bắt.
Theo quy định của Điều 82 BLTTHS thì khi phát hiện một người đang có hành vi phạm tội, ngay sau khi phạm tội, đang bị đuổi bắt hoặc đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt giữ mà không cần lệnh, cách thức bắt tùy theo sự chống đối và tính chất tội phạm mà áp dụng cho phù hợp. Khi bắt, người bắt có quyền tước vũ khí của người bị bắt kèm theo các vật chứng có liên quan (nếu có), song không có quyền khám người bị bắt vì khám người được quy định theo một trình tự thủ tục riêng chặt chẽ hơn.
Sau khi bắt phải dẫn giải ngay người bị bắt đến cơ quan Công an, VKS hoặc UBND nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản về việc bắt, nhận người bị bắt và phải tổ chức giải người bị bắt đến cơ quan có thẩm quyền giải
quyết. Trường hợp UBND cấp xã sau khi nhận người phải dẫn giải đến cấphuyện chứ không được tạm giữ cấp xã, cấp xã không được xây dựng nhà tạm giữ để giữ người theo thủ tục TTHS.
Tuy nhiên, trong thực tế đối với quần chúng nhân dân và UBND cấp xã do chưa phân biệt một cách rò ràng giữa hành vi phạm tội và hành vi vi phạm hành chính, từ đó dẫn đến tình trạng là bắt cả người có hành vi vi phạm hành chính dẫn đến Cơ quan điều tra. Do vậy, Cơ quan điều tra và VKSND cần có sự phối hợp trong công tác phân loại xử lý, sau đó mới quyết định việc áp dụng hoặc không áp dụng BPNC tiếp theo.
Vấn đề bắt người đang bị truy nã cùng áp dụng trong một điều luật với trường hợp phạm tội quả tang như vậy là chưa hợp lý. B i vì, đối tượng bị truy nã, các thông tin về người bị truy nã không giống với người phạm tội quả tang, sau khi bắt người bị truy nã thì việc dẫn giải đến cơ quan truy nã cũng còn gặp phải những vấn đề phức tạp. Vì vậy, theo tôi phần này cần quy định thành một chế định riêng.
Thứ tư, bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong việc quy định về quyền khiếu nại tố cáo của người bị bắt.
Quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự là quyền thể hiện ý kiến phản đối hoặc tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, cá nhân có trách nhiệm trong tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. Điều 31 BLTTHS đã quy định: Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại, công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó. Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Như vậy, đối với người bị bắt cũng có quyền khiếu nại, tố cáo về hành vi trái pháp luật của những người bắt mình. Đồng thời đảm bảo quyền khiếu nại, tố cáo của những người bị bắt chính là đảm bảo quyền con người của những chủ thể này.
2.1.3. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự qua các quy định về địa vị pháp lý của người bị bắt
Bộ Luật tố tụng hình sự 2003 chưa có quy định riêng về quyền của người bị bắt trong tố tụng hình sự. Đến nay, Hiến pháp năm 2013 có nhiều quy định mới về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có quy định cụ thể quyền của người bị bắt trong tố tụng hình sự nói chung trong đó có giai đoạn điều tra Tại Khoản 4, 5 Điều 31 cụ thể:
“4. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.
5. Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật”.[30]
Thứ nhất,người bị bắt có quyền bào chữa, được bào chữa
Quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, một quyền hiến định được tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam đều ghi nhận. Khác với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 2013 quy định rò hơn về quyền bào chữa của công dân trong TTHS.Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam là những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn đã hạn chế một số quyền công dân, quyền con người của người bị bắt, những đối tượng trên cần phải có quyền nhất định để chứng minh việc bị nghi thực hiện tội phạm hoặc bị buộc tội.Quyền bào chữa được xem là phương tiện pháp lý cần thiết để những
đối tượng trên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, tại Khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy địnhhọ (bao gồm cả người bị bắt)khi tham gia tố tụng có quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Thứ hai,người bị bắt được bồi thường thiệt hại trong trường hợp oan, sai và trách nhiệm của người làm oan, sai
Để bảo đảm những quy định của Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện triệt để, tránh việc buộc tội oan, sai, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của con người, khoản 5 Điều 31 Hiến pháp 2013 quy định việc bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho những người bị bắt oan sai. Bắt người biện pháp ngăn chặn nhằm hạn chế một số quyền của công dân, quyền con người của người bị bắt. Mục đích của các biện pháp này là để đảm bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đảm bảo trật tự pháp luật và pháp chế. Tuy nhiên, biện pháp ngăn chặn nói trên khi áp dụng cũng rất dễ tạo ra những ảnh hư ng tiêu cực đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trong thực tế, có lúc có nơi vẫn còn xảy ra tình trạng bắt người tùy tiện, bắt oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có lệnh đã làm ảnh hư ng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, để bảo đảm những quy định của Hiến pháp, pháp luật tố tụng hình sự được thực hiện một cách triệt để, tránh việc buộc tội oan, sai, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của con người, pháp luật cũng quy định việc bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự cho những người bị buộc tội, bị thi hành án oan, sai. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại được áp dụng trong đó có người bị bắt trong trường hợp họ bị áp dụng các biện pháp hình sự trái pháp luật. Mức độ thiệt hại nhiều hay ít tùy thuộc vào hành vi trái pháp luật hoặc quyết định và việc thực hiện quyết định trái pháp luật.Người bị bắt có quyền yêu
cầu các cơ quan tiến hành tố tụng nhà nước bồi thường theo mức độ thiệt hại thực tế đã gây ra. Việc bồi thường có thể được giải quyết thông qua thương lượng giữa các bên hoặc thông qua phán quyết của tòa án.
Bên cạnh đó, người vi phạm pháp luật trong việc bắt gây thiệt hại cho người khác cũng sẽ bị xử lý theo pháp luật. Với yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, việc bắt cần phải được tiến hành kiên quyết, kịp thời. Tuy nhiên, không thể vì bất cứ một lý do gì mà áp dụng các biện pháp ngăn chặn tràn lan, sai tính chất, sai đối tượng, không đảm bảo các yêu cầu của pháp luật làm ảnh hư ng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những hành vi bắt oan người vô tội, bắt không đúng thủ tục, bắt sai thẩm quyền, tạm giữ hoặc tạm giam quá hạn không chỉ xâm hại hoạt động đúng đắn của cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, xâm phạm quyền bất khả xâm phạm thân thể và sinh mạng chính trị của con người, của công dân mà còn làm suy giảm uy tín của Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của quần chúng đối với các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc xử lý những người vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng, thi hành án gây thiệt hại cho người khác là nhằm bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền con người, loại bỏ sự tùy tiện áp dụng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Có thể nói, tất cả những quy định của Hiến pháp và pháp luật về bắt, tạm giữ, tạm giam đều nhằm góp phần phát huy dân chủ, tăng cường hơn nữa hiệu lực của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân để xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
2.2. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam 2015 về bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
2.2.1. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự qua các quy định về nguyên tắc tố tụng hình sự