Người bị buộc tội đảm bảo đảm quyền sử dụng tiếng nói chữ viết của dân tộc mình đẻ khi tham gia tố tụng. Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch, đồng thời giải thích cho người bị buộc tội biết quyền này phải đảm bảo điều kiện để họ được quyền dùng tiếng nói và chữ viêt mà họ thông thạo. Các văn bản theo luật cần phải dịch ra dịch ra ngôn ngữ dân tộc mà người bị buộc tội sử dụng khi tống đạt cho họ.
1.2.2.Quy định của pháp luật về quyền tố tụng chung của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can là người bị bị buộc tội trong các giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng hình sự. Vì vậy, họ được pháp luật tố tụng hình sự quy định một số quyền giống nhau trong các giai đoạn tố tụng mà họ tham gia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời góp phần xác định sự thật của vụ án. Các quyền chung của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra được quy định tại điều 58, 59 và 60 BLTTHS năm 2015 như sau:
- Quyền được biết lý do mình bị bắt, bị tạm giữ, bị khởi tố. Trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiến hành việc bắt người, tạm giữ, khởi tố bị can sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Vì vậy, người bị buộc tội cần phải được biết lý do mình bị bắt, bị tạm giữ, bị khởi tố. Quyền này sẽ giúp cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can có thể chuẩn bị tốt về mặt tâm lý và tài liệu, chứng cứ để bảo vệ mình trong quá trình tố tụng. CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm phải thông báo cho người bị buộc tội biết biết lý do họ bị bắt, bị tạm giữ, bị khởi tố.
- Được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ; được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình trong giai đoạn khởi tố, điều tra. Khi tham gia tố tụng, người bị buộc tội chỉ có thể thực hiện tốt, đầy đủ các quyền và chấp hành tốt các nghĩa vụ mà pháp luật quy định khi họ biết và hiểu rò các quyền mình được hưởng và nghĩa vụ mà mình phải thực hiện. Vì vậy, BLTTHS quy định người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra được người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo và giải thích về các quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình tố tụng.
Quyền được nhận các quyết định tố tụng có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra là một quyền rất quan trọng. Bởi vì các quyết định tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra mà người bị buộc tội tham gia ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Vì vậy, họ phải được nhận các quyết định tố tụng này. Việc được nhận các quyết định tố tụng trên là cơ sở để người bị buộc tội có thể biết được tiến trình tố tụng của các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc họ bị buộc tội, tạo tiền đề để họ có thể tham gia và thực hiện đầy đủ các quyền của mình theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự như quyền bào chữa, quyền khiếu nại. Theo quy định của BLTTHS năm 2015 các cơ quan có thẩm quyền sau khi ra các quyết định tố tụng có liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội có trách nhiệm phải giao các quyết định tố tụng này cho bị can trong thời hạn luật định, việc giao nhận các quyết định tố tụng phải được lập thành biên bản.
- Quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Khi tham gia tố tụng, người bị bắt, bị tạm giữ, bị can là chủ thể bị buộc tội, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ, cũng như đảm bảo việc xác định sự thật khách quan của vụ án, BLTTHSquy định người bị bắt, bị tạm giữ, bị can được quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội; đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Bị can thực hiện các quyền này để cung cấp thông tin, tài liệu chứng cứ liên quan đến việc mình bị buộc tội nhằm bác bỏ, loại trừ việc buộc tội của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với mình.
- Tự bào chữa, nhờ người bào chữa. Quyền bào chữa là quyền quan trọng của người bị buộc tội được ghi nhận trong các văn bản pháp lý quốc tế, Hiến pháp năm 2013 và BLTTHS năm 2015. Việc ghi nhận và đảm bảo quyền bảo chữa cho người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án là sự biểu hiện cho bản chất nhân
đạo, văn minh, tiến bộ của Nhà nước, thể hiện tư tưởng bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội. Việc quy định quyền bào chữa tạo cơ sở cho người bị buộc tội có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước sự buộc tội tư phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Người bị buộc tội có quyền tự mình bào chữa và nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa cho mình. Việc đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội giúp họ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp trong quá trình giải quyết vụ án. Đồng thời còn đảm bảo việc giải quyết vụ án hình sự của các cơ quan có thẩm quyền được khách quan, công bằng, đúng pháp luật.
- Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Quyền khiếu nại là một quyền quan trọng của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra nói riêng và những người tham gia tố tụng nói chung. Quyền này giúp người bị buộc tội có thể bảo vệ mình trước các quyết định và hành vi trái pháp luật từ phía các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi tham gia tố tụng ở giai đoạn khởi tố, điều tra nếu người bị buộc tội cho rằng các quyết định, hành vi tố tụng của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ được quyền khiếu nại.
Có thể bạn quan tâm!
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 2
- Ý Nghĩa Của Việc Quy Định Về Quyền Của Người Bị Buộc Tội Trong Tths
- Mối Quan Hệ Giữa Quyền Của Người Bị Buộc Tội Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra Vụ Án Hình Sự Với Một Số Nguyên Tắc Cơ Bản Trong Luật Tố Tụng
- Thực Tiễn Áp Dụng Quy Định Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Về Quyền Của Người Bị Buộc Tội Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra Từ Thực Tiễn Tỉnh Bình
- Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Bình Dương - 7
- Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Áp Dụng Của Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Về Quyền Của Người Bị Buộc Tội Trong Giai Đoạn Khởi Tố, Điều Tra
Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.
1.2.3.Quy định của pháp luậtvề quyền tố tụng riêng có của người bị buộc tội với tư cách người bị tạm giữ hoặc bị can
- Quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Theo quy định tại Điều 50, 58, 59 và 60 BLTTHS năm 2015 thì người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra tham gia với tư cách người bị tạm giữ, bị can mới có quyền này. Còn người bị bắt không có quyền này khi tham gia tố tụng.
Người bị tạm giữ, bị can là người tham gia tố tụng có quyền và lợi ích hợp pháp bị ảnh hưởng trực tiếp bởi các quyết định và hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi tham gia tố tụng bị can có căn cứ để cho rằng người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không vô tư, khách quan có thể xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì họ được quyền đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu người bị tạm giữ, bị can có cơ sở để cho rằng những người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng có căn cứ không vô tư, khách quan thì họ có quyền đề nghị thay đổi họ.
- Quyền đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người giám định định giá, người phiên dịch, dịch thuật. Quyền này chỉ người bị buộc tội với tư cách của bị can mới có. Người bị buộc tội với tư cách người bị bắt, bị tạm giữ không có quyền này vì xuất phát từ địa vị tố tụng của họ và thời gian tồn tại tư cách tố tụng của người bị bắt, người bị tạm giữ trong thời gian rất ngắn. Kết luận giám định, kết luận định giá tài sản là nguồn chứng cứ quan trọng nhằm xác định các vấn đề cần phải chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Thẩm quyền trưng cầu giám định, trưng cầu định giá tài sản nhằm thu thập chứng cứ thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, trưng cầu định giá cơ quan có thẩm quyền phải thực hiện việc trưng cầu để thu thập chứng cứ. Trong quá trình tham gia tố tụng, nếu có các vấn đề cần phải chứng minh trên cơ sở kết luận giám định, kết luận định giá tài sản nhưng cơ quan có thẩm quyền chưa thực hiện việc trưng cầu giám định gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị can thì bị can được quyền đề nghị giám định, định giá tài sản. Người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, dịch thuật là những người tham gia tối tụng có vai trò cung cấp các nguồn chứng cứ nhằm hỗ trợ, giúp đỡ cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng xác định sự thật của vụ án. Kết luận giám định, kết luận định giá tài sản cũng như lời phiên dịch, tài liệu dịch thuật không đúng sự thật mà được sử dụng làm chứng cứ để giải quyết vụ án sẽ dẫn đến các quyết định tố tụng sai lầm, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng. Nếu bị can cho rằng người giám định, định giá, phiên dịch dịch thuật có căn cứ không vô tư khách quan thì họ được quyền đề nghị thay đổi người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật.
- Quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu. Quyền này chỉ bị can mới có vì thời điểm thực hiện quyền này là từ khi kết thúc giai đoạn điều tra. Việc ghi nhận đảm bảo tranh tụng trong tố tụng hình sự là một bước tiến quan trọng về mặt lập pháp trong việc
đảm bảo quyền con người. Trên cơ sở ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo BLTTHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung một số quy định nhằm đảm bảo thực hiện tranh tụng trong tố tụng hình sự. Một trong những vấn đề được BLTTHSnăm 2015 bổ sung đó là quyền đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa kể từ khi kết thúc điều tra khi có yêu cầu. Quyền này giúp bị can tiếp cận được các tài liệu, chứng cứ liên quan đến việc buộc tội, hoặc gỡ tội của mình họ mới có thể thực hiện tốt quyền tự bào chữa và quyền tranh tụng thực chất tại phiên tòa nhằm bảo vệ mình trước việc bị buộc tội. Việc thực hiện quyền này được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư liên tịch số 02/2018/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BQPquy định chi tiết trình tự, thủ tục, thời hạn, địa điểm bị can đọc, ghi chép bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa khi bị can có yêu cầu.
1.2.4. Quy định của pháp luật về quyền đặc thù của người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự
Ngoài các quyền chung nói trên thì người dưới 18 tuổi còn có các quyền đặc thù được quy định tại Chương XXVIII BLTTHSnhư: quyền được chỉ định người bào chữa; quyền được đảm bảo giữ bí mật cá nhân; quyền được đảm bảo có sự tham gia tố tụng của người đại diện, đại diện nhà trường, Đoàn thanh niên, cơ quan tổ chức nơi bị can dưới 18 tuổi học tập, lao động và sinh hoạt; quyền được đảm bảo hoạt động hỏi cung thân thiện; quyền được đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời; quyền được được hạn chế áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế tố tụng…
- Quyền được chỉ định người bào chữa trong trường hợp không nhờ được người bào chữa
Quyền này được quy định tại 76và Điều 422 BLTTHS năm 2015, trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sựngười bị buộc tội dưới18 tuổi và người đại diện của họ không mời người bào chữa, cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ yêu cầu đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ.Người bị buộc tội dưới18 tuổi và người đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu thay đổi hoặc
từ chối người bào chữa do cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định. Điều này xuất phát từ đặc điểm nhân thân của người bị buộc tội dưới 18 tuổi, do tâm sinh lý chưa phát triển hoàn thiện, nhận thức pháp luật hạn chế nên họ chưa có khả năng bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia tố tụng. Vì vậy, nếu họ và người đại diện của họ không nhờ được người bào chữa, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong giai đoạn khởi tố, điều tra có trách nhiệm phải đảm bảo quyền bào chữa cho người bị buộc tội dưới 18 bằng cách chỉ định người bào chữa cho họ.
- Quyền được bảo vệ về thông tin bí mật cá nhân của bị can dưới 18 tuổi. Quyền được bảo vệ về thông tin cá nhân là một quyền con người, quyền công dân cơ bản được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền được bảo vệ thông tin bí mật cá nhân của người dưới 18 tuổi cần càng cần được tôn trọng và bảo vệ nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi của họ. Việc quy định quyền này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp người bị buộc tội không bị tổn thương tâm lý, mặc cảm với xã hội và sau khi vụ án giải quyết xong họ có thể tái hòa nhập cộng đồng nhanh chóng, phát triển lành mạnh. Quyền đảm bảo giữ bí mật cá nhân của người bị buộc tội dưới 18 tuổi được quy định tại khoản 2 Điều 414 BLTTHS năm 2015 là tư tưởng mang tính chỉ đạo cho các hoạt động tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
- Quyền được đảm bảo hoạt động hỏi cung, lấy lời khai thân thiện.Quyền này được quy định tại Điều 421 BLTTHS năm 2015 như sau:Khi lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải thông báo trước thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung cho người bào chữa, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc lấy lời khai, hỏi cung bị can phải có mặt người bào chữa hoặc người đại diện của họ.Người bào chữa, người đại diện có thể hỏi người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi nếu được Điều tra viên, Kiểm sát viên đồng ý. Sau mỗi lần hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa, người đại diện có thể hỏi người bị buộc tội.
Về thời gian lấy lời khai, hỏi cung người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi không quá hai lần trong 01 ngày và mỗi lần không quá 02 giờ, trừ trường hợp: phạm tội có tổ chức, để truy bắt người phạm tội khác đang bỏ trốn, ngăn chặn người khác
phạm tội, để truy tìm công cụ, phương tiện phạm tội hoặc vật chứng khác của vụ án, vụ án có nhiều tình tiết phức tạp.
Theo Thông tư liên tịch 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP- BLĐTBXH về phối hợp thực hiện một số quy định của BLTTHS đối với người dưới 18 tuổi khi tiến hành lấy lời khai, hỏi cung, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng, sử dụng ngôn ngữ dễ hiểu, phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức của họ; xem xét áp dụng các biện pháp phù hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất thời gian, số lượng lần lấy lời khai, hỏi cung và phải tạm dừng ngay việc lấy lời khai, hỏi cung khi người dưới 18 tuổi có biểu hiện mệt mỏi, ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.
- Quyền được đảm bảo giải quyết nhanh chóng, kịp thời các vụ án liên quan đến người bị buộc tội dưới 18 tuổi.
Việc giải quyết vụ án kéo dài thì người bị buộc tội dưới 18 tuổi sẽ bị ảnh hưởng nặng nề về tâm lý, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Việc giải quyết nhanh chóng vụ án có người bị buộc tội dưới 18 tuổi sẽ giúp họ không bị ảnh hưởng nặng nề bởi các thủ tục tố tụng và có thể hào nhập với cộng đồng thuận lợi và nhanh chóng hơn sau khi vụ án kết thúc. Quyền được đảm bảo giải quyết nhanh chóng vụ án đối với người bị buộc tội dưới 18 tuổi được quy định tại Điều 414 BLTTHS. Với quy định này đồi hỏi các giai đoạn tố tụng có bị can là người dưới 18 tuổi phải được ưu tiên giải quyết nhanh chóng hơn so với các vụ án thông thường.
Qua phân tích ở trên có thể thấy, BLTTHS năm 2015 đã quy định đầy đủ và hoàn thiện về các quyền tố tụng của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố và điều tra. Việc quy định đầy đủ và hoàn thiện các quyền này trong luật tạo cơ sở pháp lý rò ràng và chặt chẽ trong việc đảm bảo quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự. Đồng thời, đảm bảo mục đích của quá trình tố tụng nhằm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Kết luận chương 1
Trong Chương 1 luận văn đã nghiên cứu và giải quyết được những vấn đề sau đây:
Quyền con người nói chung và quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự nói riêng là giá trị cốt lòi được ghi nhận, bảo đảm trong các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Quyền của người bị buộc tội trong bộ luật TTHS Việt Nam theo công ước quốc tế về quyền con người thể hiện nền tư pháp văn minh, tiến bộ. Các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong BLTTHS không phải thiên về lợi ích của những người bị nghi là có tội hay làm suy yếu đi cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm của các cơ quan chức năng, mà chính là đòi hỏi các cơ quan đó và những người tiến hành tố tụng trong mọi hoạt động tố tụng phải thận trọng, vô tư và đề cao tinh thần trách nhiệm làm rò các chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội, làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tránh làm oan người vô tội và bỏ lọt người phạm tội.
Luận văn đã đi khảo sát các quan điểm khoa học pháp lý quyền, luận văn đã xây dựng được khái niệm về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khơi tố, điều tra vụ án hình sự như sau: Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là những việc pháp luật tố tụng hình sự quy định cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can được hưởng, được làm, được yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đảm bảo thực hiện trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự.
Trên cơ sở khái niệm được trình bày, luận văn đã phân tích các đặc điểm đặc trưng về quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự như sau: Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là một bộ phận cấu thành địa vị pháp lý bên cạnh nghĩa vụ của họ; Quyền của người bị buộc tội trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự được ghi nhận và bảo đảm bởi các quy định của pháp luật tố tụng hình sự; Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng (CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra) có