Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam Về Bảo Đảm Quyền Con Người Đối Với Người Bị Bắt Trong Giai Đoạn Điều Tra Vụ Án Hình Sự

quyền con người của người bị bắt trong BLTTHS Nhật Bản được thể hiện các điểm cơ bản liên quan đến căn cứ, thủ tục, thẩm quyền bắt.

Theo Điều 199 BLTTHS Nhật Bản thì căn cứ bắt được quy định là khi có lý do tin rằng bị can đã thực hiện tội phạm với điều kiện người đó phạm những tội liên quan đến phạt tiền không quá ba trăm nghìn yên, giam giữ hình sự hoặc phạt tiền ít nghiêm trọng, bị can có thể chỉ bị bắt khi không có nơi cố định hoặc không tuân thủ việc có mặt quy định tại các điều trong Bộ luật này mà không có lý do chính đáng. Trường hợp thẩm phán cho rằng có đủ lý do để nghi ngờ bị can đã thực hiện một tội phạm thì phải ban hành lệnh bắt đề cập tại đoạn trên theo yêu cầu của công tố viên hoặc sỹ quan cảnh sát (liên quan đến sỹ quan cảnh sát, phạm vi được giới hạn đối với người có cấp bậc điều tra viên hoặc cấp cao hơn theo quy định của Uỷ ban An toàn Công cộng Quốc gia hoặc Uỷ ban An toàn Công cộng Địa phương): Với điều kiện là điều này không áp dụng nếu thẩm phán cho rằng rò ràng không cần thiết phải bắt.

Như vậy quy định về điều kiện bắt trong BLTTHS Nhật Bản là rất cụ thể với những yếu tố nhất định nhằm đảm bảo quyền của người bị bắt. Các trường hợp có thể áp dụng biện pháp bắt người được quy định theo mức hình phạt mà người này có thể bị áp dụng hoặc trường hợp người này không có nơi

cố định. Điều này mục đích bắt được thể hiện các nội dung có liên quan đến việc không phải trường hợp nào cũng áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt mà chỉ áp dụng trong một số trường hợp nhất định.

Về thẩm quyền bắt người được trao cho Thẩm phán, cũng như BLTTDS Đức thi quy định này của Nhật Bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm tốt hơn quyền con người của người bị bắt, tránh tình trạng những chủ thể buộc tội như cơ quan điều tra, viện công tố lạm dụng việc bắt người để tiến hành điều tra dễ dàng hơn, nhưng lại xâm phạm tới các quyền cơ bản của

con người. Điều này để đảm bảo quyền con người tốt hơn trong tố tụng hình sự, đặc biệt đối với người bị bắt.

Thủ tục bắt người phải có lệnh bắt. Lệnh bắt được quy định tại Điều 200 BLTTHS Nhật Bản. Theo đó, Lệnh bắt phải có tên và địa chỉ của bị can, tội phạm, các tình tiết chính bị cáo buộc, cơ quan nhà nước hoặc nơi khác cần đến, thời hạn hiệu lực và tuyên bố nêu rò là sau khi hết thời hạn này thì lệnh bắt không được thi hành và bị trả lại cũng như ngày ban hành lệnh, và các vấn đề được quy định trong các nguyên tắc của toà án; thẩm phán phải ký tên, đóng dấu vào lệnh. Như vậy không phải bắt một cách tùy tiện mà cần phải tiến hành việc bắt người phải tuân thủ chặt chẽ hình thức bắt được quy định trong BLTTHS. Lệnh bắt người là văn bản của nhà nước nhằm thể hiện thủ tục bắt người tác động tới người bị bắt. Đồng thời lệnh bắt người cần phải đưa cho người bị bắt xem lệnh. Cũng như việc bắt xong cần phải đưa ngay người bị bắt đến trước công tố viên và sỹ quan cảnh sát.

Về quyền của người bị bắt được đảm bảo như: quyền được xem lệnh bắt, quyền được thông báo ngay cho người này các tình tiết chính cấu thành tội phạm và quyền chỉ định người bào chữa, và phải cho người này cơ hội giải thích; và phải trả tự do ngay nếu tin rằng không cần thiết phải giữ người này lại; và nếu tin rằng cần phải giữ người này, thi phải tiến hành các thủ tục để đưa người này đến trước công tố viên trong vòng bốn mươi tám giờ kể từ thời điểm bị can bị bắt, cùng với tài liệu và chứng cứ. Như vậy, quyền bào chữa của người bị bắt được đảm bảo. Chúng ta thấy một quyền con người quan trọng của người bị buộc tội đó chính là quyền bào chữa. Quyền này là quyền chống lại cáo buộc, buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi bị nghi thực hình tội phạm của mình. Chính vì vậy họ có thể sử dụng hình thức tự mình bào chưa hoặc nhờ người bào chữa. BLTTHS Nhật Bản đã quy

định cụ thể về cả hai trường hợp này. Theo khoản 3 Điều 203 thì Trường hợp thông báo là bị can có thể chỉ định người bào chữa theo quy định tại đoạn 1 liên quan đến trường hợp quy định tại Điều 37-2 đoạn 1, sỹ quan cảnh sát phải chỉ thị cho bị can là, nếu họ không thể tự mình chỉ định người bào chữa do không đủ kinh phí hoặc vì lý do khác trong trường hợp bị yêu cầu giam giữ, người này có thể yêu cầu thẩm phán chỉ định người bào chữa, cũng như đối với vấn đề là người này phải nộp một bản Báo cáo Phương tiện để yêu cầu thẩm phán chỉ định luật sư, và nếu các phương tiện của họ là trên mức tiêu chuẩn, thì trước đó họ phải yêu cầu Đoàn luật sư chỉ định người bào chữa (có nghĩa là Đoàn luật sư được yêu cầu theo Điều 31-2 đoạn 1 phù hợp với quy định của Điều 37-3 đoạn 2).

Từ những sự phân tích trên cho thấy, vấn đề bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra nói riêng của Nhật Bản đã được quan tâm và có những quy định chặt chẽ.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Chương 2

PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ BẮT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH

Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự - 7


2.1. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

2.1.1. Bảo đảm quyền con người đối với người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự qua các quy định về nguyên tắc tố tụng hình sự

Chương II của BLTTHS năm 2003 quy định một loạt các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Những nguyên tắc này được áp dụng một cách xuyên suốt trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Đồng thời các nguyên tắc này cũng nhằm đảm bảo những quyền con người cơ bản khi thực hiện đầy đủ chúng. Tuy nhiên khi nghiên cứu một cách chi tiết thì cũng chỉ có một số nguyên tắc nhất định có ý nghĩa trong việc bảo đảm quyền con người của người bị bắt tố tụng hình sự đặc biệt là trong giai đoạn điều tra.

- Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (điều 4)


Đây là nguyên tắc cơ bản, mang tính xuyên suốt, mang tư tư ng chỉ đạo cho việc bảo đảm quyền con người nói chung trong tố tụng hình sự trong đó có quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Nguyên tắc này được áp dụng trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người được thể hiện chỗ, những chủ thể có trách nhiệm trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trong giai đoạn điều tra như Thủ trư ng, Phó Thủ trư ng Cơquan điều tra, Điều tra viên, Viện trư ng, Phó Viện trư ng Viện kiểm sát phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt trong giai đoạn điều tra; Thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của các biện pháp ngăn chặn bắt người đã được áp dụng nếu

không có căn cứ bắt người thì không áp dụng biện pháp ngăn chặn này; Kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn bắt người nếu xétthấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.

BLTTHS 2003 cũng có bổ sung quan trọng khi quy định tráchnhiệm của những người tiến hành tố tụng không chỉ phải tôn trọng mà còn phải bảovệ các quyền con người. Điều này có thể được hiểu là trong TTHS nói chung và trong giai đoạn điều tra nói riêng, cơ quan điều tra không chỉ tôn trọng, không vi phạm quyền con người, quyền của người bị bắt là chưa đủ, mang tính thụ động, người có trách nhiệm còn phải chủ động,tích cực bảo vệ quyền của người bị bắt khi có vi phạm từ phía cơ quan điều tra bằng các biện pháp tố tụng khác nhau như thay đổi người tiến hành điều tra, hủy bỏ hoặc thay đổi các quyết định tố tụng trái pháp luật, xử lý người viphạm, bồi thường thiệt hại v.v…

- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật(điều 5)

Nguyên tắc này cũng là một nguyên tắc quan trọng trong việc bảo đảm quyền các quyền con người của người bị bắt. Theo nguyên tắc này, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, khôngphân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Như vậy có nghĩa, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn không có sự phân biệt về dân tộc, giới tính, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội mà mọi trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt đều phải được tiến hành theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ do BLTTHS quy định. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc thù nhất định đó là trường hợp cần áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt đối với Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân thì cần những thủ tục đặc biệt nhất định. Điều này không đồng nghĩa với việc đó là sự không đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công

dân khi bắt. Mà là do những đối tượng trên là những đối tượng đặc biệt khi áp dụng biện pháp ngăn chặn có thể ảnh hư ng nhất định đến hoạt động bình thường của các tổ chức quyền lực nhà nước nên cần phải có thủ tục mang tính đặc thù trên.

- Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân(điều 6)

Nguyên tắc này được coi là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong việc bảo đảm quyền con người của người bị bắt trong tố tụng hình sự nói chung và trong giai đoạn điều tra nói riêng. Nguyên tắc này được kế thừa quy định mang tính nguyên tắc được thể hiện trong Hiến pháp 2013, đó là quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người. Bất khả xâm phạm về thân thể là quyền cơ bản của công dân được quy địnhtrong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của nước ta. Đặc biệt, trong tố tụnghình sự, nơi mà pháp luật cho phép trong những trường hợp nhất định các biện phápcưỡng chế tố tụng nói chung, biện pháp hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thânthể có thể được áp dụng nhằm đạt được mục đích phát hiện nhanh chóng, xử lýcông minh tội phạm và người phạm tội thì nguyên tắc này lại càng có ý nghĩa quantrọng trong việc bảo đảm quyền con người.Theo quy định của điều 6 BLTTHS thì nguyên tắc này có nội dung như sau:

+ Không ai có thể bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án hoặc phê chuẩncủa Viện kiểm sát. Chỉ có Tòa án hoặc Viện kiểm sát là các cơ quan có thẩm quyềncuối cùng quyết định việc bắt người trừ trường hợp phạm tội quả tang. Theo điều 80BLTTHS, mặc dù Thủ trư ng, Phó Thủ trư ng Cơ quan điều tra có quyền ra lệnh bắt người, nhưng lệnh đó phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn thì mới có hiệu lực thi hành. Điều 81 BLTTHS quy định Thủ trư ng,Phó Thủ trư ng Cơ quanđiều tra các cấp, người chỉ huy quân đội

độc lập cấp trung đoàn và tương đương,người chỉ huy đồn biên phòng biên giới, hải đảo, người chỉ huy tàu bay, tàu biểncó quyền ra lệnh bắt khẩn cấp; tuy nhiên, trong hời gian 24 giờ mà lệnh bắt khẩn cấp không được phê chuẩn thì người bị bắt được trả tự do;

+ Việc bắt người phải tuân thủ quy định của BLTTHS. Để bảovệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, tránh sự lạm dụng, vi phạm pháp luật trong việc bắt và giam giữ người, BLTTHS quy định rất cụ thể, chặt chẽcác căn cứ, thẩm quyền và thủ tục việc bắt người; quy định cụ thể thờiđiểm bắt người. Mọi trường hợp làm trái đều là vi phạm pháp luật tùy theo mức độ người vi phạm có thể bị truy cứu TNHS. Trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người, biện pháp điều tra thu thập chứng cứ không được dùng nhục hình, bức cung, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người bị bắt [8,tr.69]. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể củacông dân đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định đó trong việc bắtngười [28];

- Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản củacông dân (điều 7)

Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản là những quyền cá nhânthiêng liêng được bảo hộ tuyệt đối trong xã hội dân chủ, tiến bộ. Đây cũng là nguyên tắc có ảnh hư ng quan trọng đến việc đảm bảo quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong hệ thốngpháp luật quốc gia, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dânluôn luôn được bảo vệ tuyệt đối. Quyền công dân được bảo hộ tính mạng, sức khỏe,danh dự, nhân phẩm, tài sản được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta. Đây là nguyêntắc hiến định được thể hiện trong luật tố tụng hình sự. Nguyên tắc quy định:

+ Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danhdự, nhân phẩm, tài sản. Điều này có nghĩa khi áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, các chủ thể tiến hành hoạt động này trong đó có cơ quan điều tra cần phải hết sức cẩn trọng trong việc bảo đảm cho tính mạng, sức khỏe của người bị bắt không bị xâm phạm, không có hành vi tác động tới danh dự, nhân phẩm, tài sản của người bị bắt.

+ Bộ luật tố tụng hình sự cũng nghiêm cấm hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự và nhân phẩm của công dân trong hoạt động bắt người, mặc dù đây là những chủ thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tức họ bị tước một số quyền tự do thân thể nhưng mọi hành vi xâm phạm tới tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của họ đều bị xử lý theo pháp luật bằng các biện pháp như xử lý kỷ luật, buộc bồi thường hoặc truy cứu tráchnhiệm hình sự;

- Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa ánđã có hiệu lực pháp luật (điều 9)

Đây cũng chính là nguyên tắc quan trọng có ảnh hư ng nhất định đối với việc đảm bảo quyền con người của người bị bắt trong giai đoạn điều tra. Điều 9 BLTTHS quy định “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” [28]. Đây là nguyên tắccơ bản, quan trọng không chỉ trong tố tụng hình sự nước ta mà tố tụng hình sự quốctế cũng quy định. Một người chỉ được coi là có tội khi đối với người đó đã có bản án kết tội củaTòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hay nói cách khác chính xác hơn, khi chưa có bảnán kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với một người thì người đó được coi là không có tội. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất có quyền phán xử một người có tội bằng bản án kết tội theo trình tự, thủ tục mà BLTTHS quy định. Người phạm tội chỉ

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí