Vai Trò Bảo Đảm Quyền Con Người Của Viện Kiểm Sát Nhân Dân Trong Giai Đoạn Khởi Tố Vụ Án Hình Sự

thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, được áp dụng những biện pháp do Bộ luật tố tụng hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Với vai trò, trách nhiệm chứng minh, buộc tội của mình, Viện kiểm sát vừa phải đảm bảo quyền con người được thực hiện trên thực tế, vừa có trách nhiệm phòng, chống oan sai, vừa có trách nhiệm không để xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, đồng thời còn có trách nhiệm phải phát hiện, ngăn chặn và có biện pháp xử lý các hành vi vi phạm các quyền con người trong các giai đoạn tố tụng hình sự. Các quy định của pháp luật nêu trên, cho phép Viện kiểm sát nhân dân trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, được áp dụng các biện pháp pháp lý cụ thể nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, góp phần đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.

Do đó, có thể rút ra “Bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự là việc Viện kiểm sát thông qua việc thực hiện các quyền năng pháp lý được ghi nhận trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự, xác định các biện pháp pháp lý cụ thể nhằm bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra được thực hiện trên thực tế và không bị xâm phạm bởi cơ quan, tổ chức hay cá nhân nhân nào”.

1.2.1. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự

Như trên đã phân tích, giai đoạn khởi tố vụ án hình sự là sự phản ứng từ phía Nhà nước đối với mỗi hành vi phạm tội nhằm góp phần phát hiện, điều tra, và xử lý một cách kịp thời, có căn cứ, đúng pháp luật hành vi phạm

tội và người phạm tội. Bởi lẽ, trong giai đoạn khởi tố, việc xác định “có dấu hiệu tội phạm” dựa trên rất nhiều nguồn tin khác nhau. Nguồn tin này có thể chính xác hoặc không chính xác và cần có thời gian để xác minh, kiểm chứng, đánh giá, để có căn cứ khởi tố vụ án hình sự. Nên, hoạt động khởi tố vụ án hình sự kịp thời, chính xác sẽ góp phần tăng cường pháp chế, bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, góp phần có hiệu quả vào cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Trong giai đoạn này, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự, đảm bảo mọi tội phạm được phát hiện phải bị khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ, đúng pháp luật. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003, để đảm bảo tính kịp thời, có căn cứ trong việc phát hiện và xử lý tội phạm, Viện kiểm sát phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật ngay từ giai đoạn tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Qua đó, để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị bắt, bị tạm giữ, và những người tham gia tố tụng khác được thực hiện và không bị xâm phạm, Viện kiểm sát có thể sử dụng các quyền năng pháp lý như:

- Yêu cầu Cơ quan điều tra thông báo đầy đủ số lượng, nội dung tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố do Cơ quan điều tra tiếp nhận;

- Yêu cầu cơ quan điều tra thông báo về kết quả giải quyết cũng như yêu cầu bổ sung tài liệu, chứng cứ để làm rò căn cứ của việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự;

- Kiến nghị cơ quan điều tra trong việc phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố trong các trường hợp như vi phạm về thời hạn giải quyết, trình tự, thủ tục giải quyết;

- Nếu thấy quyết định của Cơ quan điều tra rò ràng là không có căn cứ, thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

- Yêu cầu cơ quan điều tra ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự;

- Trực tiếp khởi tố vụ án hình sự, ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự nếu cơ quan điều tra không thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát.

Bảo đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân - 5

- Nếu hết thời hạn tạm giữ vẫn không đủ căn cứ phê chuẩn quyết định khởi tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì Viện kiểm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu cơ quan đã khởi tố bị can trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.

- Nếu qua nghiên cứu hồ sơ thấy có dấu hiệu của việc lạm dụng việc bắt khẩn cấp, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa thể hiện rò căn cứ để bắt khẩn cấp hoặc người bị bắt không nhận tội, các chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn, … hoặc trong trường hợp cần thiết khác thì Viện kiểm sát trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước quyết định việc phê chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp.

- Nếu xét thấy việc gia hạn tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì ra quyết định không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu người đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ [24].

1.2.2. Vai trò bảo đảm quyền con người của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

Trong giai đoạn điều tra, Nhà nước giao cho Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố. Viện kiểm sát được sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra truy tố để xét xử. Đồng thời, kiểm sát việc tuân theo pháp luật, bảo đảm việc điều tra được khách quan, toàn diện và đầy đủ, bảo đảm những vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra được phát hiện, khắc phục kịp thời. Hoạt động điều tra là nội dung quan trọng của quyền

công tố, về nguyên tắc, nếu hoạt động điều tra có thể làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội góp phần bảo đảm pháp chế, bảo đảm quyền con người quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, nếu hoạt động điều tra vi phạm các quy định của pháp luật, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự dựa trên kết quả điều tra, sẽ dễ xâm hại đến quyền lợi cơ bản của những người liên quan, đặc biệt là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can. Do đó, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm đảm bảo hoạt động điều tra của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải khách quan, thận trọng, vô tư, không bỏ lọt tội phạm, đồng thời không làm oan người vô tội, hay bỏ lọt người phạm tội, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; việc điều tra được khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ và đúng pháp luật.

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn: Khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật. Trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không

phê chuẩn phải nêu rò lý do; huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.

Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.

Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, để bảo đảm quyền con người trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có thể thực hiện các biện pháp như:

Nếu thấy quyết định khởi tố bị can, hồ sơ xin phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra chưa rò căn cứ, Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra bổ sung tài liệu, chứng cứ làm rò căn cứ khởi tố, căn cứ xem xét, quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam. Bên cạnh đó, Viện kiểm sát có thể hỏi cung bị can, lấy lời khai người làm chứng, người bị hại để làm rò căn cứ khởi tố bị can trước quyết định việc phê chuẩn hay huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can.

Nếu còn thời hạn tạm giam nhưng thấy biện pháp tạm giam đối với bị can không còn cần thiết thì Viện kiểm sát trực tiếp huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can.

Trong quá trình điều tra vụ án, Viện kiểm sát có thể trực tiếp gặp, hỏi cung bị can khi thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không

thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; bị can khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ vụ án từ Cơ quan điều tra chuyển sang, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hỏi cung bị can để kiểm tra tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai giữa bị can, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc khi cần thiết phải nhận dạng người hay đồ vật, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc đối chất hoặc nhận dạng.

Trong quá trình kiểm sát điều tra, khi xác định bắt buộc phải có người bào chữa theo mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa, thì Viện kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình.

Ngoài ra, nếu phát hiện cơ quan điều tra không đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền của những người tham gia tố tụng khác, thì Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan điều tra thực hiện nghiêm túc. Nếu Cơ quan điều tra không thực hiện, Viện kiểm sát phải có văn bản kiến nghị.

Sau khi nhận được kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra chuyển sang, nếu có một trong những căn cứ xác định bị can không phạm tội; bị can phạm tội nhưng thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại và người bị hại không yêu cầu hoặc rút yêu cầu hoặc có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án [24].

Như vậy, với nhiệm vụ, quyền hạn và các biện pháp thực hiện trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát vừa là người quyết định việc

truy tố người phạm tội trước Tòa án để xét xử, bảo đảm nguyên tắc, bất cứ hành vi phạm tội nào xâm phạm đến quyền con người đều phải được phát hiện, xử lý trước pháp luật, vừa bảo đảm các hoạt động điều tra, các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị tình nghi, bị can, bị cáo được tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Như vậy, sự tham gia của Viện kiểm sát trong giai đọan điều tra vụ án hình sự để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội và người phạm tội đều được phát hiện, xử lý theo quy định của pháp luật; đồng thời, bảo đảm việc điều tra tuân thủ đúng pháp luật, mọi hoạt động xâm phạm đến các quyền của con người không bị pháp luật tước bỏ đều phải được phát hiện và xử lý.

1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về đảm quyền con người trong giai đoạn khởi tố - điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân qua các giai đoạn lịch sử trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003

1.3.1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960

Cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đưa nước ta dành được độc lập và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ ngày đầu xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xây dựng các cơ quan chuyên trách như cơ quan Công tố và Tòa án có nhiệm vụ trấn áp bọn phản cách mạng, trừng trị và phòng ngừa các tội phạm hình sự nhằm mục tiêu là bảo vệ chế độ Nhà nước của nhân dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Ngày 13/9/1945, Chính phủ ban hành Sắc lệnh số 33c về việc thành lập Tòa án quân sự - đây là cơ sở pháp lý đầu tiên của Nhà nước dân chủ nhân dân, đánh dấu sự ra đời của hệ thống Tòa án, đồng thời cũng là văn bản đầu tiên quy định về tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố trong bộ máy nhà

nước ta. Theo đó, vào giai đoạn này, Công tố viện là một bộ phận trong hệ thống cơ quan Tòa án. Nội dung của quyền công tố theo Sắc lệnh này là đưa một người phạm tội ra xét xử tại Tòa án và thực hiện việc buộc tội trước Tòa án, chưa có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.

Tiếp đó, Nhà nước ta đã ban hành các Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946; Sắc lệnh số 51 ngày 20/7/1946 và sắc lệnh số 19 ngày 16/2/1947... quy định thành lập hệ thống Tòa án nhân dân (tòa án thường), trong đó Công tố viện là một tổ chức bên cạnh Tòa án và trực thuộc Bộ tư pháp quản lý. Hệ thống Công tố ở Tòa thượng thẩm và Tòa án đệ nhị cấp do một Viện trưởng lý đứng đầu, lúc này Công tố viện vẫn chỉ có chức năng truy tố người phạm tội ra Tòa án để xét xử..

Năm 1950, yêu cầu của cuộc cánh mạng đặt ra là phải xây dựng một Nhà nước dân chủ nhân dân, xây dựng một nền tư pháp mới, nền tư pháp phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Trên cơ sở kết quả Hội nghị cải cách tư pháp và bản thuyết trình của Bộ tư pháp trình Chính phủ về việc đề nghị cho ban hành sắc lệnh về cải cách bộ máy tư pháp và thẩm quyền tố tụng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85-Sl ngày 22/5/1950 về cải cách tư pháp và luật tố tụng và Sắc lệnh số 103-SL ngày 05/6/1950 quy định mối quan hệ giữa Ủy ban kháng chiến hành chính với các cơ quan chuyên môn, Về vị trí của cơ quan công tố so với các quy định được ban hành trước cải cách tư pháp năm 1950 về cơ bản không thay đổi, vẫn được tổ chức trong hệ thống Tòa án.

Đến năm 1958 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội thông qua ngày 29/4/1958, thực hiện việc cải cách tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước nên Quốc hội đã quyết định thành lập cơ quan Viện công tố trung ương và hệ thống viện công tố. Từ thời điểm này Viện công tố tách khỏi tổ chức của Toà án và sự quản lý của Bộ tư pháp, đặt Viện công tố trung ương trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm, quyền hạn ngang một Bộ. Sau đó, Phủ Thủ

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí