Bản sắc văn hóa Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh - 2

Về phương diện nội dung:

Trong lời tựa Khi đá cũng được giải oan, Lã Thanh Tùng có nhận xét về những niềm vui và nỗi đau cũng mang nét riêng biệt trong truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh: “Cây bút của chị cũng gió mưa, hoa lá sâu rầy ong bướm như hàng nghìn nhà văn trên trái đất này, nhưng cái niềm vui và nỗi đau của chị thì lại đặc trưng cho bản thể chị, chúng “ngún” lên từ từng tế bào, giọng nói, cái lối hành xử của chị, về cuộc sống đang ngổn ngang bề bộn nơi cái xứ Mường Vang, Mường Dồ âm u đại ngàn Bắc Trung Bộ Việt Nam” [4]. Nhận xét về tập truyện ngắn Nước mắt của đá, Lã Thanh Tùng cho rằng: “Trên tay các bạn đang là máu thịt chị, bảy truyện ngắn tròn trịa, ấm nóng, bảy tiếng thở dài và bảy bài ca u buồn…Bảy truyện ngắn trong tập này giống như bảy chú lùn siêng năng kết đoàn cùng xây đắp một tổ ấm ngăn nắp mời gọi, để mỗi độc giả khi lạc vào có thể tự mình thể nghiệm một vai Bạch Tuyết ê chề mà hạnh phúc” [4].

Hầu hết những người nghiên cứu về Hà Thị Cẩm Anh đều có một quan điểm trùng hợp đó là họ đều nhận ra chất văn hoá Mường rất riêng và một sức hút diệu kì trong trang văn của bà.

Đọc những truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, những ai chưa từng đặt chân đến mảnh đất của xứ sở người Mường đều ít nhiều hiểu được cuộc sống và phong tục của con người nơi đây. Chính vì có một tình yêu máu thịt với quê hương mà những trang viết của nhà văn đậm đà bản sắc dân tộc đến thế. Trong lời tựa tập truyện ngắn Bài xường ru từ núi, Đỗ Đức đã có những đánh giá tinh tế khi ông có sự liên tưởng giữa Hà Thị Cẩm Anh và Ra - xun - gam - za - tốp: “Đọc tập truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh tôi lại nhớ tới Ra - xun Gam - za - tốp với cuốn sách Đaghetxtan - tình yêu của tôi. Ở đây tôi không có ý so sánh văn chương của hai tác giả, bởi họ rất khác biệt nhau về lối viết. Nhưng cái giống nhau lại gần như trùng khít, đó là ngòi bút của họ chỉ quanh quẩn trên quê hương xứ sở của mình. Con đường văn nghiệp gắn chặt với mảnh đất mình được sinh thành…Hà Thị Cẩm Anh, chị người Mường. Mảnh đất chị chọn

cho văn chương là Mường Vang, là làng Chiềng, là thung lũng Si Dồ - xứ Thanh. Nhân vật của chị là chú Giáp, ông Nềnh, chị Sun, thằng Chinh ngốc…Là quê hương chị với những làng bản đã quen tên, những con người đã nhẵn mặt” [3].

Tác giả Nguyên Tĩnh trong bài Hà Thị Cẩm Anh và thung lũng Si Dồ khẳng định rằng Hà Thị Cẩm Anh đã tìm thấy “cái Mường trong văn học” rất riêng. Ông cho rằng Hà Thị Cẩm Anh rời quê hương Cẩm Sơn của mình từ khá sớm nhưng cái sợi dây nối kết con người và văn hoá cội nguồn truyền thống giữa nhà văn với quê hương chưa bao giờ đứt. Tuy nhà văn đã ra đi từ lâu để làm người thành thị nhưng “hình bóng quê hương, bản mường trong sáng tác lúc nào cũng lồ lộ…Nhà văn không chỉ viết nên những truyện ngắn dễ thương về thung lũng Si Dồ, mà còn làm một việc khác nữa, là khôi phục cho các thế hệ sau cùng tưởng tượng về sông núi, cỏ cây, con người, nguồn cội…đang bị thời gian làm cho phôi pha, mòn, mất dần dư vị của tiếng cồng chiêng, lời ăn tiếng nói và dòng máu Mường trong huyết quản” [43]. Theo Nguyên Tĩnh thì có lẽ vốn sống của Hà Thị Cẩm Anh phong phú đã khiến cho những câu chuyện của bà đậm chất văn hoá Mường mà không hề gượng ép, khiên cưỡng: “Trong số không nhiều những nhà văn dân tộc Mường còn bám trụ lại trên xứ Thanh; phần nhiều là người làm thơ, riêng Hà Thị Cẩm Anh lại chọn cho mình viết văn xuôi. Công việc nhọc nhằn đòi hỏi phải bươn trải, lăn lộn và nhất là phải tích luỹ kiến thức và vốn hiện thực phong phú. Vốn sống nói chung là một thách thức đối với các nhà văn, vốn sống về văn hoá của người Mường lại càng khó. Làm sao để trong tác phẩm của mình mang được bóng dáng của quê hương, của người Mường. Không phải chỉ là nói nhịu trong lời ăn tiếng nói, trong sinh hoạt để làm nên sắc thái. Cũng không phải chỉ là một vài tên gọi: Vạ, Mộng râu, Mộng váy..v.v…rồi ép cho nó cái vỏ của người Mường một cách khiên cưỡng” [43].

Tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền trong bài viết Văn học hiện đại dân tộc Mường: những khuôn mặt đã khẳng định sức sáng tạo bất ngờ và mạnh mẽ,

dữ dội của Hà Thị Cẩm Anh: “Năm 1998, Hà Thị Cẩm Anh cầm bút trở lại và lần này thì quyết liệt. Có ai ngờ người phụ nữ đã bước vào tuổi “lục thập hoa giáp” lại có một trận maratông trong văn chương và gây bất ngờ như vậy. Những gì chất chứa trong con người chị đã bung như nham thạch núi lửa tuôn trào. Chị viết liên tục, sôi động và trầm lắng những gì đã quan sát, trải nghiệm, để những Đêm Khua Luống dành cho người chết, Ngôi nhà sàn cũ kĩ, Gốc gội xù xì…để lại nhiều dư ba trong bạn đọc” [55].

Có thể nói, các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh đã đi sâu phản ánh cuộc sống của con người miền núi, là bức tranh toàn cảnh về quê hương xứ Mường của bà. Trong đó, vừa chan chứa niềm tự hào về những phong tục tập quán của quê hương, vừa ẩn giấu giọt nước mắt xót xa cho sự phai nhạt của những truỳên thống văn hóa khi đời sống kinh tế thị trường thâm nhập vào bản mường. Hà Thị Cẩm Anh đặc biệt trăn trở về nỗi đau của thân phận người phụ nữ, về những cánh rừng, dòng sông đang oằn mình hứng chịu sự huỷ dịêt của con người. Những trang văn của nữ sĩ vừa là chia sẻ, vừa là trải nghiệm và cũng là tiếng kêu cứu của thiên nhiên. Về vấn đề thông điệp bảo vệ thiên nhiên trong các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, tác giả Phạm Duy Nghĩa đánh giá: “Trong văn xuôi miền núi, cùng với Nguyễn Huy Thiệp, La Quán Miên và Hoàng Thế Sinh, Hà Thị Cẩm Anh là cây bút có ý thức tuyên ngôn về mối quan hệ hoà hợp con người - tự nhiên và đặt ra vấn đề bảo vệ thiên nhiên một cách rõ ràng, kiên quyết. Truyện ngắn của nhà văn dân tộc Mường này có môtíp: Con người đến với thiên nhiên để tìm một chỗ dựa tinh thần khi bản thân bị cộng đồng xa lánh, hắt hủi và khi đó họ trở thành người tình nguyện bảo vệ thiên nhiên” [26, tr.94].

Qua các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, ta nhận thấy một tình yêu thiên nhiên sâu nặng và tình cảm nhân đạo sâu sắc của người con xứ Mường. Đồng thời hiện lên trong các tác phẩm của nhà văn là nét đẹp mang bản sắc riêng của văn hoá Mường.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Về phương diện nghệ thuật:

Tác giả Thanh Tùng trong bài tựa Khi đá cũng được giải oan viết cho tập truyện ngắn Nước mắt của đá đánh giá một nét phong cách nổi bật trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh đó là “một “bản lĩnh lãng mạn” riêng, tinh tế mà vạm vỡ, thô tháp mà dịu mát, ngỗ ngược mà nhân tình ấm áp ?” [4] . Tác giả bài viết khẳng định chất hiện thực gồ ghề, xù xì của cuộc sống đời thường đã làm vơi bớt phần nào chất lãng mạn trong các trang văn của bà: “Nhưng sẽ có nhiều người đọc thích bình lặng, muốn được nghe những lời du dương, muốn được uống mật ong và rượu hoa quả, thì văn cách của Hà Thị Cẩm Anh cần phải giấu bớt chất gồ ghề, phải tăng cường chất nũng nịu phụ nữ, tóm lại, phải lãng mạn, lãng mạn hơn nữa” [4].

Bản sắc văn hóa Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh - 2

Đọc truyện ngắn của Hà Thị Cẩm Anh, ta thấy có sự phân cực rõ ràng giữa cái thiện và cái ác. Điều đó đòi hỏi nhà văn phải có lối viết mạnh bạo, bản lĩnh, bộc lộ thẳng thắn quan điểm của mình. Tác giả Đỗ Đức trong lời tựa Đọc truyện ngắn Hà Thị Cẩm Anh viết cho tập truyện Bài xường ru từ núi đã nhận xét về phong cách viết của nhà văn: “Chị viết dữ dội, không mập mờ và luôn rạch ròi giữa thiện và ác. Thái độ của chị là thẳng băng rõ ràng. Trong truyện ngắn của chị, cái ác không ít lần thắng thế, nhưng chỉ là thắng thế nhất thời. Cái thiện nhỏ nhoi nhiều khi bị lép vế, bị bóp nghẹt nhưng cái thiện luôn là mầm sống bất diệt” [3]. Cũng như sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số thì sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh rất đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc. Có thể nói, một trong những phương diện nghệ thuật mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc Mường đó là kết thúc truyện có hậu. Tác giả Phạm Duy Nghĩa trong Văn xuôi Việt Nam hiện đại về dân tộc và miền núi cho rằng: “Hà Thị Cẩm Anh còn tỏ ra duy ý chí hơn khi để cho một số kết truyện của mình nhuốm đậm màu hồng cổ tích, cô gái tật nguyền có khuôn mặt biến dạng được anh cán bộ tử tế thương yêu, nâng đỡ, lấy làm vợ (Gốc gội xù xì)” [ 26, tr.122 ].

Trong bài viết Nhìn ra được mất nhận xét về tập truyện Một nửa của người đàn bà, Trọng Miễn có những đánh giá xác đáng về văn phong của Hà Thị Cẩm Anh “Văn của Hà Thị Cẩm Anh thấm đẫm hồn cốt của người Mường…Phải là người hiểu văn hoá Mường, yêu quý văn hoá Mường mới viết được như thế” [23, tr.18]. Có thể nói rằng, bản sắc văn hoá Mường còn in đậm trong ngôn ngữ của nhân vật: “Cách ăn nói của nhân vật đều tạo ra một không gian truyện ngắn, đều chắp nối dòng lịch sử với âm hưởng của núi non sông nước, cỏ cây đất Si Dồ” [43].

Nhìn chung các ý kiến nghiên cứu đều khẳng định rằng bản sắc văn hoá dân tộc rất đậm nét trong các sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những nhận xét trong các bài báo, bài nghiên cứu lẻ tẻ mà chưa có một chuyên luận nào đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Do đó, việc tìm hiểu Bản sắc văn hoá dân tộc Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh một cách toàn diện, hệ thống dựa trên những luận giải, minh chứng cụ thể là một điều cần thiết.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu vấn đề Bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác Hà Thị Cẩm Anh.

- Phạm vi tài liệu nghiên cứu của đề tài là các tập truyện của Hà Thị Cẩm Anh:

+ Người con gái Mường Biện (Tập truyện và ký 2002)

+ Những đứa trẻ mồ côi (Truyện dài 2003)

+ Bài xường ru từ núi (Tập truyện ngắn, 2004)

+ Nước mắt của đá (Tập truỵên ngắn 2005)

+ Lão thần rừng nhỏ bé (Truyện dài 2007)

+ Mưa bụi (Tập truyện ngắn 2008)

+ Một nửa của người đàn bà (Tập truyện ngắn 2013)

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu đề tài Bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh, chúng tôi xác định những nhiệm vụ sau:

- Làm rõ những nét đặc sắc của văn hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh ở các phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật

- Góp phần làm rõ nét hơn những đóng góp của nhà văn Hà Thị Cẩm Anh trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, khẳng định được vị trí của nhà văn trong nền văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.

5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp khảo sát thống kê, hệ thống

- Phương pháp so sánh, đối chiếu

- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại

- Phương pháp liên ngành

6. Đóng góp của đề tài

- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính chất hệ thống toàn diện và khái quát sâu sắc về vấn đề bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định những nét riêng trong cách khám phá và thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc của nhà văn so với nhiều nhà văn dân tộc thiểu số khác.

- Kết quả của luận văn ít nhiều góp phần gợi mở một hướng tiếp cận mới cho các sáng tác văn học nói chung và cho văn học các dân tộc thiểu số nói riêng. Luận văn có những đóng góp nhất định vào vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc của nước ta.

7. Cấu trúc đề tài

Ngoài các phần Mở đầu, phần Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung gồm ba chương:

Chương 1: Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hóa dân tộc. Nhà văn Hà Thị Cẩm Anh trong dòng chảy của văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện

– đương đại.

Chương 2: Những mạch nguồn cảm hứng mang đậm bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh.

Chương 3: Đặc trưng nghệ thuật thể hiện bản sắc văn hoá Mường trong sáng tác của Hà Thị Cẩm Anh

NỘI DUNG

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT VỀ BẢN SẮC VĂN HOÁ DÂN TỘC. NHÀ VĂN HÀ THỊ CẨM ANH TRONG DÒNG CHẢY CỦA VĂN HỌC DÂN TỘC THIỂU SỐ VIỆT NAM HIỆN – ĐƯƠNG ĐẠI

1.1. Một số vấn đề lí thuyết về bản sắc văn hoá dân tộc

1.1.1. Khái niệm “bản sắc văn hoá dân tộc”

*Khái niệm văn hoá

Văn hoá là một khái niệm rộng và được đề cập đến rất nhiều trong đời sống hiện tại. Văn hoá không chỉ thể hiện qua truyền thống dân tộc mà còn thể hiện trực tiếp trong đời sống hàng ngày của mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Văn hoá giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống, quyết định sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia nói riêng hay cả nhân loại nói chung.

Đã có rất nhiều bài viết, công trình nghiên cứu luận bàn về khái niệm văn hoá, nhưng cho đến nay, người ta vẫn chưa đưa ra được một khái niệm chung nhất. Có ý kiến cho rằng văn hoá là tất cả những gì con người sáng tạo từ thuở sơ khai của loài người: “Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh cuả xã hội loài người” [60, tr.17]. Ở phương Đông, từ văn hoá đã xuất hiện rất sớm. Trong Chu Dịch, quẻ Bi đã giải thích văn và hoá nghĩa là xem dáng vẻ con người, lấy đó mà giáo hoá thiên hạ. “Người sử dụng từ văn hoá sớm nhất có lẽ là Lưu Hướng (năm 77- 6 trước công nguyên), thời Tây Hán với nghĩa như một phương thức giáo hoá con người - văn trị giáo hoá” [60, tr.18]. Còn ở phương Tây, để chỉ văn hoá, người Pháp, người Anh có từ culture. Từ này xuất phát từ chữ gốc Latinh là cultus animi với nghĩa là trồng trọt tinh thần. Đến thế kỉ XIX thì E.B.Taylor quan niệm rằng văn hoá là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục, những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội. Ở thế kỉ XX, khái niệm văn hoá thay đổi theo F.Boa.

Ông cho rằng xem xét sự khác nhau về văn hoá của từng dân tộc không căn cứ vào tiêu chuẩn trí lực. Vì vậy, vấn đề văn hoá không nên xem xét ở trình độ cao hay thấp mà chủ yếu ở góc độ khác biệt.

Các tác giả của cuốn Từ điển Tiếng Việt đã đưa ra năm cách hiểu khác nhau về văn hoá:

1.Văn hoá là “tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.

2. Văn hoá là “những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần (nói tổng quát)”.

3. Văn hoá là “tri thức, kiến thức khoa học ( nói khái quát )”.

4. Văn hoá là“trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh”.

5. Văn hoá là “nền văn hoá của một thời kì lịch sử, được xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy được có những điểm giống nhau” [59, tr.1110].

Văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt mà nó là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Vì vậy, Unesco đã khẳng định vị trí và vai trò quan trọng của văn hoá đối với sự hình thành nhân cách của mỗi con người và sự phát triển của xã hội: “Văn hoá hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hoá mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/10/2023