gối, ruột đau như cắt nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng” [14, 92 ]
Thông qua hai sự kiện lịch sử giống nhau ở hai nước để khẳng định đường lối đức trị của Việt Nam khác với đường lối cai trị của nhà Đường, tuy rằng cả hai đều chịu ảnh hưởng của Nho giáo. “Đức trị” thời Lý -Trần dựa trên lòng thương người, sự khoan dung đại độ của nhà vua, đồng thời nó cũng xuất phát từ chính thực tiễn xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam.
2.2 Ảnh hưởng của sự dung thông tam giáo trong việc xây dựng và phát triển giáo dục - khoa cử
Có thể nói, hệ thống giáo dục - khoa cử của Đại Việt thực sự hiện hữu từ khi nhà Lý mở khoa thi đầu tiên (năm 1075) và mở trường công ở trung ương với tên gọi là Quốc Tử Giám (năm 1076). Như vậy, chúng ta có thể xác nhận một cách có cơ sở rằng, trước các sự kiện xuất hiện hệ thống giáo dục với các thành tố công lập và tư thục, khoa cử (bao gồm tuyển cử và tiến cử), v.v, dường như chỉ tồn tại nền giáo dục tư thục và những người dạy học xuất thân từ nhiều kiểu trí thức khác nhau, trong đó trí thức Phật giáo và Đạo giáo đóng vai trò chủ đạo.
Đặc điểm căn bản nhất của hệ thống giáo dục - khoa cử thời Lý mang tính sơ khai, bởi nửa cuối thế kỷ XI, tức là sau 70 năm từ khi thiết lập vương triều, nhà Lý mới xây dựng được mô hình giáo dục - khoa cử của mình, trong đó kế thừa các yếu tố mang tính tự phát trong nhân dân là chính. Ngoài con đường thi tuyển do triều đình mở, còn có sự tiến cử những người không qua mô hình đào tạo ở Quốc Tử Giám, nơi chỉ dành cho con em hoàng gia, quý tộc. Các thiết định về quy chế thi cử còn lỏng lẻo, đặc biệt là về kỳ hạn. Mặc dù vậy, có thể nói, đây là bước khởi đầu của một hệ thống mà nhờ có nó,các triều đại phong kiến về sau mới hoàn thiện dần để hệ thống giáo dục - khoa cử Đại Việt trở nên hoàn chỉnh hơn.
Sang thời Trần, do nhu cầu phát triển bộ máy nhà nước quân chủ trung tương tập quyền, vấn đề trị nước được đặc biệt chú trọng bởi các yếu tố chủ quan và khách quan chi phối. Đặc biệt, vận mệnh của đất nước trước nguy cơ chiến tranh do đội quân viễn chinh khét tiếng khắp lục địa Á - Âu thời bấy giờ là Nguyên Mông, vấn đề củng cố bộ máy nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân càng được nhà Trần quan tâm. Đây là vấn đề mà Phật giáo không thể đảm đương xét từ góc độ giáo lý của nó. Chính vì vậy, để có nhà nước mạnh, nhân dân đoàn kết một lòng dưới sự lãnh đạo của các “vua hiền chúa thánh minh”, cần phải có sự đào tạo thường xuyên, liên tục nguồn nhân lực đủ cả về lượng lẫn chất đáp ứng cho nhu cầu của đất nước và thời đại. Đó là nguyên nhân để nhà Trần phát triển giáo dục - khoa cử một cách có quy củ, bài bản trên cơ sở ưu tiên cho lĩnh vực giáo dục theo tinh thần Nho giáo. Nhờ đó, hệ thống giáo dục - khoa cử được thiết lập và hoàn thiện hơn nhiều so với thời Lý. Các kỳ thi, nội dung và cách thức thi cử rò ràng hơn, đồng thời kéo theo cách dạy và học ở hệ thống giáo dục công cũng như tư thục phát triển. Mô hình giáo dục tư thục có thể lấy trường của Thầy Chu Văn An làm thí dụ. Trong điều kiện Phật giáo chiếm ưu thế là, các bậc quân vương chủ yếu là các nhà sư uyên bác, mà nhà nho - nhà giáo dục Chu Văn An được tôn vinh “vạn thế sư biểu”, ngang hàng với Khổng Tử Trung Hoa cổ đại là điều phi thường.
Việc xác lập triều Lý năm 1009 và Lý Công Uẩn dời kinh đô từ Hoa Lư ra Thăng Long vào năm 1010 với ý đồ xây dựng một vương triều bền vững lâu dài, nhằm “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu”, đã mở ra một thời kỳ phát triển mới về mọi mặt của quốc gia Đại Việt. Đó cũng là dấu mốc có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với toàn bộ quá trình phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam về sau. Xét nước Việt ở thế kỷ X, sau hơn một nghìn năm Bắc thuộc, nhu cầu tất yếu phải xây dựng được nhà nước quân chủ độc lập vững chắc. Do vậy, cần phải có hệ tư tưởng lý luận soi đường, phải có tầng lớp trí thức đảm nhiệm trọng trách lớn lao trong bộ máy chính
quyền. Trước đòi hỏi tất yếu của tồn tại xã hội và nhu cầu xây dựng nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, phải bắt đầu từ việc xây dựng và phát triển nền giáo dục. Ngoài ra, môt măt, trong khi yếu tố bản địa có mặt hạn chế của nó là không có văn tự, trình độ dân trí thấp; mặt khác, các hệ thống triết học du nhập vào nước ta (Nho, Phật, Lão) lại uyên thâm và khá hoàn chỉnh. Cho dù mỗi dòng tư tưởng này có những hạn chế nhất định, cũng như nội dung tư tưởng, chức năng và phạm vi ảnh hưởng của Nho, Phật, Lão về cơ bản là khác nhau, mâu thuẫn nhau, nhưng vì đều tồn tại trên một cơ sở kinh tế - xã hội nhất định và đáp ứng được nhu cầu cai trị và quản lý xã hội của giai cấp phong kiến Đai Việt. Vì thế, ba đạo ấy có thể bổ sung cho nhau, kết hợp với nhau tạo nên hệ tư tưởng Nho - Phật – Lão cho giai cấp phong kiến Đai Việt dưới triều Lý (và cả triều Trần sau này). Việc các ông vua đầu triều Lý trong buổi đầu kiến tạo và phát triển vương nghiệp của mình đã dung hòa ba dòng tư tưởng này kết thành hệ tư tưởng Nho - Phật -Lão là một sự lựa chọn đúng đắn. Thực tiễn lịch sử đất nước Đại Việt dưới thời Lý -Trần cho thấy, chính sự lựa chọn này là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho quốc gia Đại Việt vượt qua nhiều thử thách khốc liệt và góp phần đáng kể vào việc bảo vệ, phát triển đất nước về mọi mặt. Tuy nhiên, vị trí, tính chất và vai trò của ba dòng tư tưởng này trong hệ tư tưởng Nho - Phật - Lão từ thời Lý trở đi có những biến đổi qua từng thời kỳ, thậm chí từng triều vua. Dưới thời Lý - Trần, Phật giáo được coi là quốc giáo, là tôn giáo của triều đình. Nhiều ông vua rất uyên thâm và tôn sùng Phật giáo, nhiều vị cao tăng được trọng dụng, nhưng nhìn chung, vị trí, vai trò của Nho giáo ngày càng lớn, hiệu quả hơn trong cai trị và quản lý xã hội, cũng như trong việc triển khai và thực thi những nhiệm vụ chính trị của giai cấp phong kiến Việt Nam.
Sự phát triển của Nho giáo trong lĩnh vực giáo dục - khoa cử bắt đầu thể hiện rò từ thời Lý. Từ đây, hệ thông giáo dục của nước ta được xây dựng theo mô hình của Nho giáo và có sự điều hành trực tiếp của nhà nước phong kiến.
Mặc dù dưới thời Lý, Nho giáo được nhà nước chấp thuận là một thành tố của hệ tư tưởng Nho - Phật - Đạo; mở mang nền giáo dục khoa cử Nho học và như GS Trần Văn Giầu khẳng định, “nhà Lý ngày càng dựa vào Nho giáo” [8, t2, 64], nhưng Nho giáo vẫn giữ một vị trí khá khiêm tốn. Tuy nhiên, theo thời gian, Nho giáo ngày càng có vị trí, vai trò nhiều hơn trong đời sống tinh thần của con người và xã hội Việt. Nếu như lúc đầu, Nho giáo mới chỉ được triều đại phong kiến chấp nhận trên nguyên tắc để trị nước thì đến cuối triều Trần, nó đã trở thành ý thức hệ đang trên đà thống trị xã hội. Đến giữa thế kỷ XIV, Nho giáo đã chiếm được ưu thế trong cung đình và đi sâu vào sinh hoạt tinh thần của nước Đại Việt trên nhiều mặt.Chúng ta có thể thấy được sự phát triển của Nho giáo thời kỳ Lý - Trần thông qua việc khảo sát ảnh hưởng ngày một sâu rộng của nó trên các lĩnh vực của đời sống xã hội lúc bấy giờ.
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh hưởng của dung thông tam giáo đến tình hình chính trị - Xã hội ở Việt Nam thời Lý – Trần - 4
- Ảnh hưởng của dung thông tam giáo đến tình hình chính trị - Xã hội ở Việt Nam thời Lý – Trần - 5
- Những Ảnh Hưởng Nổi Bật Của Dung Thông Tam Giáo Trong Lĩnh Vực Chính Trị - Xã Hội Thời Lý – Trần
- Ảnh hưởng của dung thông tam giáo đến tình hình chính trị - Xã hội ở Việt Nam thời Lý – Trần - 8
- Ảnh hưởng của dung thông tam giáo đến tình hình chính trị - Xã hội ở Việt Nam thời Lý – Trần - 9
Xem toàn bộ 80 trang tài liệu này.
Tiến trình khẳng định vai trò Nho học trên lĩnh vực giáo dục, khoa cử, theo PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc thì, “Thời Lý -Trần, Nho học phát triển từ trên xuống dưới”[19, 99]. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu thờ Chu Công, Khổng Tử và các vị tiên hiền. Đây cũng là nơi dành riêng để dạy học cho các Hoàng Thái tử. Năm 1076, nhà Lý cho lập Quốc Tử Giám ngay giữa kinh thành. Từ đây, nền đại học nước ta được khai sinh. Tuy nhiên, cũng chỉ có các quý tộc, quan liêu và con em họ mới được theo học.
Nhìn chung, việc giáo dục Nho học ở thời Lý còn khá hạn chế. Trường học mới chỉ có ở Thăng Long, chưa mở đến các phủ huyện. Nền giáo dục Nho học lúc này chỉ dành cho quý tộc, con quan. Số lượng nho sĩ so với thời Bắc thuộc tăng nhưng vẫn chưa có nho sĩ xuất thân từ bình dân. Sang đến nhà Trần, Quốc tử viện được lập cũng không phải dành cho tất cả các đối tượng mà chỉ dành cho con em các văn quan và tụng quan vào học mà thôi. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa đông, tháng 10, cho Phạm Ứng Thần làm thượng thư tri Quốc tử viện, trông nom cho con em các văn quan và tụng quan vào học”[5, 448]. Việc cho con em các văn quan và tụng quan học Nho
giáo lúc này cốt là đào tạo người kế tục sự nghiệp của các thế hệ đi trước. Song, cùng với sự phát triển của dân tộc, nhu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi phải từng bước kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, cho nên giáo dục Nho học đã không chỉ dừng lại ở đối tượng con em các quan trong triều nữa mà đến năm 1253, cùng với việc thành lập Quốc học viện, thì đối tượng vào học đã là tất cả các đối tượng trong nước. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tháng 6, lập Quốc học viện, tô tượng Khổng Tử, Chu Công và Á Thánh, vẽ tượng 72 người hiền để thờ...Tháng 9, xuống chiếu cho các nho sĩ trong nước đến Quốc học viện giảng học tứ thư lục kinh” [5, 463].
Về trường học, ngoài Quốc học viện ở kinh đô và nhà học ở phủ Thiên Trường (lập năm 1281) do Nhà nước quản lý, còn có các trường dân lập khá nổi tiếng như trường của Chiêu quốc vương Trần Ích Tắc, trường Cung Hoàng của nho sĩ Chu Văn An (trước đó đã từng giữ chức Tư nghiệp Quốc tử giám) cũng thu hút được nhiều học sinh từ các nơi đến học. Ở các trường này cũng có nhiều người có đạo đức, có thực lực Nho học, đỗ đạt cao, được bổ nhiệm làm quan. Sử chép: An (người huyện Thanh Đàm), tính người cương trực, ít giao du, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo, không cầu danh lợi hiển đạt, ở nhà đọc sách, học vấn tinh thuần, tiếng đồn gần xa, học trò đầy cửa; thỉnh thoảng học trò đỗ đại khoa, vào chính phủ, như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá Quát đã làm hành khiển mà đều giữ lễ học trò [5, 660]. Trường của Chiêu Quốc vương từng được mở ở bên hữu phủ đệ, thu hút các văn sĩ bốn phương đến học tập: Ích Tắc là con thứ của Thượng hoàng, thông minh, chăm học, thông hiểu kinh sử và lục nghệ, văn chương nhất đời...Từng mở trường học ở bên hữu phủ đệ, họp các văn sĩ bốn phương cho học tập, cấp cho ăn mặc, dạy bảo nên tài, như bọn Mạc Đĩnh Chi ở Bàng Hà, Bùi Phóng ở châu Hồng 20 người, đều được dùng cho đời [5, 482-483]. Đến năm 1397, vua Trần Thuận Tông chính thức sai đặt nhà học và chức học quan (được nhà nước trợ cấp
ruộng công thu hoa lợi) ở các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông với chức năng là giáo hóa dân chúng, giữ gìn phong tục, dạy bảo học trò thành tài nghệ, chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình. Nhà vua này đã ra chiếu viết:
Đời xưa, nước có nhà học, đảng có nhà tự, toại có nhà tường, là để tỏ rò giáo hoá, giữ gìn phong tục, ý trẫm rất mộ. Nay quy chế ở kinh đô đã đủ mà ở châu huyện thì còn thiếu, làm thế nào mở rộng giáo hoá cho dân được? Nên hạ lệnh cho các lộ phủ Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải Đông, đều đặt một học quan, cho ruộng công theo thứ bậc khác nhau, phủ châu lớn thì 15 mẫu, phủ châu vừa thì 11 mẫu, phủ châu nhỏ thì 10 mẫu, để cung chi phí cho nhà học. (Một phần để cúng ngày mồng một, một phần về nhà học, một phần về đèn sách). Quan lộ và quan đốc học dạy bảo học trò cho nên tài nghệ, cứ đến cuối năm chọn người nào ưu tú tiến cử lên triều đình, trẫm sẽ thân hành thi để lấy dùng [5, 717].
Qua đó chúng ta thấy, việc giáo dục ở địa phương vào cuối thời Trần đã được đề ra một cách quy củ và được triều đình quan tâm không chỉ đối với các quan lại phụ trách việc dạy học mà còn rất chú trọng đến việc tuyển người tài giỏi ở các địa phương cho triều đình. Như vậy, việc mở rộng trường học phản ánh sự phát triển về quy mô đào tạo của nền giáo dục Nho học thời Trần. Thời kỳ này, Nhà nước phong kiến chỉ nắm giữ một bộ phận công việc tổ chức trường học, còn phần nhiều trường học lại nằm trong dân chúng.Cùng với giáo dục, khoa cử ở Đại Việt đã có từ thời Lý. Khoa thi đầu tiên được nhà Lý tổ chức vào năm 1075 gọi là “Minh Kinh bác sĩ và Nho học tam trường” đã chính thức khai sinh cho lịch sử thi cửNho giáo lâu dài ở nước ta. Khoa thi ấy, Lê Văn Thịnh (người Bắc Ninh) đỗ đầu Thái học sinh (Tiến sĩ sau này), được cho vào hầu vua học, sau này được thăng đến chức Thái sư. Năm 1086, triều đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển Tích trúng tuyển, được bổ làm Hàn lâm học sĩ. Năm 1152, nhà Lý tổ chức thi điện. Năm 1156, Lý Anh Tông lại cho lập miếu riêng để thờ Khổng Tử.
Điều đó thể hiện khuynh hướng muốn dựng Nho giáo thành một giáo lý độc tôn, đem Khổng Tử từ bậc tử (thầy) như các Chư Tử lên bậc Thánh Khổng vậy. Các kỳ thi tiếp theo được tổ chức vào năm 1165, 1185, 1193 và 1195. Cả triều Lý đã tổ chức được 6 khoa thi, lấy đỗ 27 người.
Với việc tổ chức khoa cử, nhà Lý đã mở đầu cho lịch sử khoa cử của nước Việt ta kéo dài hơn 800 năm, qua đây tuyển chọn những người tài cho bộ máy nhà nước, nêu cao vị trí của Nho học, thúc đẩy việc truyền bá và phát triển Nho giáo. Tuy vậy, ở thời Lý, việc học tập và thi cử chưa được tổ chức thường xuyên, chưa có quy chế rò ràng và do đó số nho sĩ được đào tạo ra hãy còn ít.
Sang đời Trần, do yêu cầu của công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, yêu cầu tuyển lựa nhân tài để bổ dụng cho bộ máy quan liêu, giáo dục Nho học được đẩy mạnh, số người tiến thân bằng con đường cử nghiệp ngày càng nhiều hơn, giới nho sĩ đông đảo hơn trước.Chỉ một năm sau khi nắm chính quyền, tức năm 1227, nhà Trần mở khoa thi Tam giáo. Từ đó, các khoa thi được tổ chức đều đặn và thường xuyên hơn thời Lý. Năm 1232, nhà Trần mở khoa thi Thái học sinh, lần đầu tiên chia thành ba hạng (tam giáp). Đỗ đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ. Khoa thi thái học sinh năm 1239 Lưu Miễn và Vương Giát đỗ đệ nhất giáp, đệ nhị giáp là Ngô Khắc, đệ tam giáp là Vương Thế Lộc. Đến năm 1246 định lệ thi tiến sĩ cứ 7 năm thi một khoá.
Song trên thực tế, nhà Trần gần như không thực hiện được định kỳ 7 năm kể từ khi quy định đó được ban hành. Năm 1247, nhà Trần mở khoa thi tiến sĩ, lần đầu tiên chia thành tam khôi (người đỗ đầu là trạng nguyên, người đỗ thứ hai là bảng nhãn, người đỗ thứ ba là thám hoa lang, sau này có đặt thêm một học vị cấp cao nữa là hoàng giáp). Khoa ấy Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn (sau này là người soạn Đại Việt Sử Ký và là sử gia đầu tiên của Việt Nam), Đặng Ma La đỗ thámhoa lang; 48 người đỗ
thái học sinh, xuất thân theo các thứ bậc khác nhau (Cùng năm ấy, triều đình lại mở khoa thi Tam giáo).
Các khoa thi sau được tổ chức liên tục vào các năm 1256, 1266, 1275, 1304, 1314, 1345, 1374, 1381, 1384 và 1393. Đặc biệt phải kể đến khoa thi năm 1304, lần đầu tiên, triều đình phong kiến đã tôn vinh cả về mặt học vấn lẫn danh dự cho những thí sinh trúng tuyển bằng việc cho “dẫn ba người đỗ đầu ra cửa Long Môn của Phượng Thành đi du ngoạn đường phố ba ngày”. Năm 1374, vua Trần Duệ Tông đổi khoa thi Thái học sinh thành Tiến sĩ. Đến cuối thời Trần, năm 1396, vua Thuận Tông thêm khoa thi Cử nhân theo lệ cứ năm trước thi Hương thì năm sau thi Hội rồi vào thi Đình để chọn Tam khôi. Cả thời Trần có tất cả 14 khoa thi (10 khoa chính thức và 4 khoa phụ), số người đỗ đạt khá nhiều và đều được tặng học vị Thái học sinh. Khoa thi năm 1247 lấy đỗ 48 người; khoa thi năm 1256: 43 người; khoa thi năm 1266: 47
người; khoa thi năm 1275: 27 người; khoa thi năm 1304: 44 người...Nhiều danh nho nổi tiếng tài giỏi và được triều đình trọng dụng. Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn khoa thi năm 1247. Ông là người chấp bút viết bộ sử đầu tiên của nước ta là bộ Đại Việt sử ký. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa xuân, tháng giêng, Hàn Lâm viện học sĩ kiêm Quốc tử viện giám tu là Lê Văn Hưu vâng chỉ soạn xong bộ Đại Việt sử ký, từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, cộng 30 quyển, dâng lên, vua xuống chiếu khen ngợi” [5, 485]. Mạc Đĩnh Chi đỗ trạng nguyên trong khoa thi tháng 3 năm 1304. Mạc Đĩnh Chi nổi tiếng học giỏi đỗ cao, danh tiếng “Lưỡng quốc trạng nguyên” lẫy lừng đến ngày nay. Ông từng làm quan và hoạt động dưới 4 triều vua Trần: Trần Anh Tông (1293-1314), Trần Minh Tông (1314-1328), Trần Hiến Tông (1329-1341) và Trần Dụ Tông (1341-1369). Đỗ cùng khoa thi với Mạc Đĩnh Chi còn có Nguyễn Trung Ngạn đỗ hoàng giáp. Nguyễn Trung Ngạn và Trương Hán Siêu được nhà vua giao cho biên soạn bộ Hoàng triều đại điển và bộ Hình thư (năm 1341).