Kết Quả Ước Lượng Biến Động Tỷ Suất Sinh Lợi Theo Mô Hình Garch (1,1)


Bảng 4.4: Kết quả ước lượng biến động tỷ suất sinh lợi theo mô hình GARCH (1,1)


𝛾0

𝛼0

𝛼1

𝛽

𝜃1

𝜃2


ACB

-0.0227

0.0406***

0.1355***

0.8540***

0.0002***

-0.1544

(0.3579)

(0.0001)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0000)

(0.6559)


CTG

0.0266

2.6799***

0.0578

0.5084***

-0.0009***

-0.1928

(0.7174)

(0.0046)

(0.1006)

(0.0051)

(0.0000)

(0.9731)


EIB

0.0054

0.2908***

0.2552***

0.6553***

0.0006***

-1.0911

(0.8821)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0000)

(0.2718)


MBB

0.0407

1.8149***

0.0719**

0.5085***

-0.0007***

-0.1130

(0.5089)

(0.0030)

(0.0360)

(0.0024)

(0.0000)

(0.9671)


NVB

-0.0794

2.4939***

0.2744***

0.5384***

-0.0013***

-5.4401***

(0.2664)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0000)


SHB

-0.0316

0.1747***

0.1006***

0.8778***

-0.0002**

-1.2878

(0.5444)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0202)

(0.1248)


STB

0.01847

1.6004***

0.3109***

0.3570***

-0.0005***

-2.5284***

(0.6696)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0000)

(0.0010)

(0.0000)

Số trường hợp có ý nghĩa thống


0/7


7/7


6/7


7/7


7/7


2/7

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Ảnh hưởng của biến động lãi suất và tỷ giá đến tỷ suất sinh lợi và biến động tỷ suất sinh lợi cổ phiếu tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 8

Ghi chú: ***, **, * kết quả có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%

Nguồn: Kết quả hồi quy từ phần mềm Eviews 8.0


Bảng 4.4 thể hiện các kết quả hệ số ước lượng từ mô hình GARCH (1,1) thể hiện mối quan hệ giữa biến động tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng và biến động lãi suất, tỷ giá hối đoái.

Hệ số hồi quy tham số ARCH (α1) có giá trị nhỏ hơn tham số GARCH (β) và có ý nghĩa thống kê trong hầu hết các trường hợp nghiên cứu bao gồm 7 tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng (chỉ có trường hợp cổ phiếu Ngân hàng TCMP Công Thương Việt Nam CTG không có ý nghĩa thống kê), hệ số α1 với giá trị nhỏ cho thấy sự hiện diện của cú sốc giai đoạn trước trong biến động tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngành ngân hàng ít tác động đến phương sai có điều kiện ở thời kỳ hiện tại. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tham số GARCH trong mô hình lớn hơn và có ý nghĩa thống kê rất mạnh (có ý nghĩa ở mức ý nghĩa 1%) trong tất cả các biến nghiên cứu, cho thấy bằng chứng mạnh mẽ của các cú sốc thời kỳ trước, tức là biến động của tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng ở thời kỳ trước sẽ tác động đáng kể đến biến động tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ở thời kỳ hiện tại. Điều này cũng được dễ dàng lý giải khi mà sự biến động của một cổ phiếu thường liên tục trong một khoảng thời gian nhất định, vì vậy biến động của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu của kỳ hiện tại sẽ chịu tác động của biến động của những kỳ trước đó.

Hệ số ước lượng 𝜃1 thể hiện sự tác động của biến động lãi suất đến biến động tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng. Hệ số ước lượng có ý nghĩa thống kê trong tất cả các trường hợp nghiên cứu bao gồm 7 tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng. Các hệ số 𝜃1là âm trong hầu hết các trường hợp cụ thể là 5/7 trường hợp có ý nghĩa và là dương trong 2/7 trường hợp có ý nghĩa là cổ phiếu ACB và cổ phiếu EIB. Điều này cho thấy, khi lãi suất bình quân liên ngân hàng biến động thì sẽ tương quan nghịch đối với tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng. Một trong những lý giải cho biến động của lãi suất làm gia tăng biến động tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng là do khi lãi suất bình quân liên ngân hàng thay đổi dẫn đến thay đổi chi phí giá vốn. Ở Việt Nam, các ngân hàng


không thể kiểm soát rủi ro lãi suất mặc dù là các ngân hàng có trong tay các công cụ tài chính phái sinh tuy nhiên sử dụng chưa hiệu quả để phòng ngừa rủi ro, hoặc là thị trường tài chính phái sinh chưa phát triển nên các ngân hàng chưa có những công cụ tài chính phái sinh phù hợp với kỳ hạn của tài sản và nợ phải trả để nắm giữ, dẫn đến khi xảy ra biến động trong lãi suất làm gia tăng rủi ro lãi suất làm cho biến động trong lãi suất áp dụng trong các hoạt động thường ngày của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng tới lợi nhuận của ngân hàng, chứng minh qua tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu của chính ngân hàng đó. Kết quả của bài nghiên cứu phù hợp với những phát hiện của Elyasiani và Mansur (2003) và Saadet Kasman, Gulin Vardar và Gokce Tunc (2011).

Hệ số ước lượng 𝜃2 thể hiện sự tác động của biến động tỷ giá hối đoái đến biến động tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng, hệ số 𝜃2 tìm thấy có ý nghĩa thống kê trong hai trong bảy trường hợp nghiên cứu là cổ phiếu NVB và cổ phiếu STB, điều này có ý nghĩa rằng sự biến động trong tỷ giá hối đoái dẫn đến sự biến động trong tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng nhưng ở mức độ thấp hơn so với tác động của lãi suất. Cùng với sự toàn cầu hóa của nền kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực tài chính - ngân hàng ngày càng hội nhập, để gia tăng lợi nhuận và đáp ứng nhu cầu của khách hàng, việc kinh doanh ngoại tệ là rất cần thiết trong hoạt động của các ngân hàng thương mại. Bên cạnh đó, rủi ro tỷ giá là rủi ro mà các ngân hàng thương mại không thể tránh khỏi khi các giao dịch ngoại hối gia tăng. Các ngân hàng Việt Nam có thể không thể tự bảo hiểm đầy đủ khi tiếp xúc với rủi ro tỷ giá hối đoái bằng các công cụ phái sinh do các công cụ phái sinh tiền tệ tại Việt Nam hiện rất ít phát triển, đây là một trong những nguy cơ có thể dẫn đến sự đối mặt nặng nề hơn đối với rủi ro tỷ giá hối đoái càng ngày càng gia tăng.

Kết quả về sự biến động lãi suất và tỷ giá tác động đến biến động của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng là một trong những điểm mới của bài nghiên cứu tại thị trường Việt Nam. Yếu tố lãi suất và tỷ giá không chỉ tác động đến tỷ suất sinh lợi của chứng khoán mà còn tác động đến biến động tỷ suất sinh lợi của chứng khoán. Kết quả bài


nghiên cứu thể hiện cho thấy rằng tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng có thể bị thay đổi đột ngột theo cả hai hướng một là tăng đột ngột hoặc giảm đột ngột do biến động trong tỷ giá và lãi suất của chính sách tiền tệ. Tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu hầu như rất ít biến động, đặc biệt là giai đoạn 2011 - 2015 (chỉ biến động khi Ngân hàng Nhà nước thực hiện điều chỉnh tỷ giá hối đoái), do vậy mức độ tác động của biến động tỷ giá hối đoái lên biến động tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng là yếu hơn so với biến động lãi suất.


Chương 5. Kết luận và kiến nghị giải pháp


5.1. Kết luận


Trong thời kỳ toàn cầu hóa kinh tế, tự do hóa tài chính, chính sách tiền tệ thay đổi, dòng vốn tự do luân chuyển, sự phát triển của các công cụ tài chính phái sinh, việc nghiên cứu tác động của lãi suất và tỷ giá hối đoái lên tỷ suất sinh lợi và biến động tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngành ngân hàng là đặc biệt quan trọng và cần thiết đối với các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam.

Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu giá của tám cổ phiếu ngân hàng được niêm yết tại Sàn chứng khoán HOSE và HNX trong giai đoạn ngày 01/11/2011 đến ngày 30/11/2017. Bằng cách sử dụng mô hình OLS và mô hình GARCH, bài nghiên cứu tìm hiểu sự tác động của tỷ suất sinh lợi thị trường đại diện là chỉ số VNINDEX (MRK), biến động của lãi suất bình quân liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm (INT) và biến động của tỷ giá hối đoái (FX) đến tỷ suất sinh lợi của tám cổ phiếu ngân hàng TMCP được niêm yết trên thị trường chứng khoán HOSE và HNX bao gồm các mã chứng khoán: ACB, CTG, EIB, MBB, NVB, SHB, STB và VCB. Ban đầu bài nghiên cứu sử dụng phương pháp OLS để ước lượng kết quả hồi quy, tuy nhiên do xuất hiện hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình OLS thông qua kiểm định ARCH, mô hình GARCH được sử dụng để ước lượng hiệu quả hơn so với phương pháp OLS. Với mô hình GARCH, bài nghiên cứu cũng cho thấy được tác động của tỷ suất sinh lợi thị trường, biến động lãi suất, biến động tỷ giá hối đoái và cú sốc tỷ suất sinh lợi trong quá khứ đến biến động của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng.

Một cách tổng quát, bài nghiên cứu thể hiện kết quả cho thấy rằng sự thay đổi lãi suất có tác động ngược chiều lên tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng. Ngoài ra bài nghiên cứu cho thấy chưa có bằng chứng vê sự tác động của thay đổi của tỷ giá hối đoái đến tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu thể hiện


kết quả cho thấy rằng tỷ suất sinh lợi chỉ số thị trường có tác động mạnh và cùng chiều lên tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng, sự tác động này là mạnh mẽ hơn lãi suất và tỷ giá hối đoái. Điều đó cho thấy rằng tỷ suất sinh lợi thị trường là yếu tố chủ yếu tác động lên tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng, khả năng giải thích sự tác động mạnh hơn so với sự biến động của tỷ giá và lãi suất.

Những bằng chứng được phát hiện cho thị trường tài chính mới nổi như là ở thị trường Việt Nam, nơi mà không cung cấp các cơ hội bảo hiểm rủi ro trong thị trường bằng những công cụ phái sinh tài chính đối với lãi suất và tỷ giá cho ngân hàng.

Bài nghiên cứu còn cho kết quả biến động của tỷ giá và lãi suất không những ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng mà còn tác động lên biến động của tỷ suất sinh lợi cổ phiếu ngân hàng, trong đó biến động lãi suất tác động mạnh mẽ hơn biến động tỷ giá hối đoái. Ngoài ra, kết quả cũng thể hiện biến động tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngành ngân hàng bị ảnh hưởng bởi các cú sốc trong quá khứ.

5.2. Kiến nghị chính sách


Kết quả bài cung cấp những thông tin quan trọng cho các nhà đầu tư đánh giá lại cổ phiếu ngân hàng, các nhà quản trị ngân hàng, quản lý rủi ro trong ngân hàng và cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách tiền tệ tại Việt Nam.

Đối với các nhà đầu tư: cần theo dòi chặt chẽ chính sách tiền tệ để có sự lựa chọn đúng đắn về các khoản đầu tư trong bối cảnh lãi suất và tỷ giá có những bất ổn ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu, cần tăng cường theo dòi và thay đổi danh mục, đa dạng hóa danh mục để phòng tránh tốt khi rủi ro có thể xảy ra bất kì lúc nào.

Các ngân hàng thương mại cần xây dựng quy trình phòng ngừa rủi ro cho các hoạt động của ngân hàng liên quan đến tỷ giá và lãi suất, tăng cường và sử dụng hiệu quả


các biện pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá và lãi suất bằng các công cụ tài chính phái sinh hiện có trên thị trường.

Ngân hàng Nhà nước theo dòi sát diễn biến vĩ mô, thị trường tiền tệ trong và ngoài nước để chủ động, kịp thời thực hiện các giải pháp điều hành phù hợp. Điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ nhằm ổn định thị trường tiền tệ, tạo thuận lợi cho quá trình tái cơ cấu thị trường chứng khoán và thị trường vốn, ổn định thị trường ngoại tệ, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tín dụng theo định hướng đề ra, tránh các ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu. Ngân hàng Nhà nước điều hành lãi suất phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ nhằm ổn định mặt bằng lãi suất. Tiếp tục chỉ đạo các TCTD tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh để ổn định lãi suất huy động và có điều kiện phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng vay nhưng đảm bảo an toàn tài chính trong hoạt động. Ngoài ra, NHNN cần điều hành tỷ giá trung tâm một cách linh hoạt, thực hiện chính sách tiền tệ hợp lý nhằm bổ trợ ổn định tỷ giá, can thiệp thị trường ngoại tệ khi cần thiết đặc biệt là trong trường hợp cung cầu ngoại tệ mất cân đối, gây tâm lý bất ổn trên thị trường ngoại hối, ngăn chặn việc đầu cơ ngoại tệ làm ảnh hưởng đến ổn định tỷ giá và kinh tế vĩ mô. Cuối cùng, NHNN cần phát triển một thị trường công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro, đáp ứng đầy đủ về kỳ hạn và loại hình cho các nhu cầu quản trị rủi ro.

5.3. Hạn chế của đề tài và kiến nghị hướng nghiên cứu trong tương lai


Hiện nay trên thị trường Việt Nam có 31 ngân hàng TMCP đang hoạt động. Vì lý do dữ liệu còn thiếu sót, bài nghiên cứu sử dụng giới hạn mẫu nghiên cứu gồm tám ngân hàng TMCP Việt Nam được niêm yết trên thị trường chứng khoán HOSE và HNX. Điều này làm cho kết quả nghiên cứu mang tính đại diện đặc trưng mà chưa thật sự bao quát toàn thị trường bao gồm cả các ngân hàng có quy mô tài sản nhỏ hơn. Về thời gian nghiên cứu, bài nghiên cứu cho giai đoạn từ ngày 01/11/2011 đến ngày 30/11/2017


trong khi ngân hàng đầu tiên trong mẫu nghiên cứu niêm yết đầu tiên vào ngày 12/07/2006 tại sàn chứng khoán HOSE nên kết luận bài nghiên cứu chỉ có giá trị trong giai đoạn nêu trên.

Ngoài ra, bài nghiên cứu đang sử dụng lãi suất bình quân liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm mà bỏ qua các lãi suất phi rủi ro hoặc lãi suất có kỳ hạn dài hơn, và tỷ giá bài nghiên cứu chỉ mới có một giai đoạn ngắn sử dụng tỷ giá trung tâm thường xuyên biến động hơn trong giai đoạn 2016 -2017, giai đoạn 2011-2015 tỷ giá hối đoái gần như không biến động nhiều khi sử dụng tỷ giá bình quân liên ngân hàng ngoài những lần điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước.

Các nghiên cứu trong tương lai sử dụng cỡ mẫu trong thời gian dài hơn và sử dụng cỡ mẫu rộng hơn bao gồm các Ngân hàng đã niêm yết trên thị trường chứng khoán để đánh giá đúng hơn thực trạng kinh tế của ngân hàng trong quá khứ, mang tính tổng quát hơn cho thị trường ngân hàng tại Việt Nam.

Trong tương lai, khi giai đoạn tỷ giá trung tâm dài hơn, có thể bài nghiên cứu sau sẽ đưa ra được những bằng chứng tác động của tỷ giá đến tỷ suất sinh lợi của cổ phiếu ngân hàng tại Việt Nam. Ngoài ra những yếu tố tâm lý, hành vi của các nhà đầu tư có thể được sử dụng để đưa vào mô hình nghiên cứu.

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/06/2022