CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN TỶ SUẤT SINH LỢI CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
2.1 Tỷ suất sinh lợi và các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng
2.1.1 Tỷ suất sinh lợi của ngân hàng
2.1.1.1 Khái niệm
Tỷ suất sinh lợi của ngân hàng là một tỷ số tài chính đo lường khả năng sinh lợi, liên quan đến lượng thu nhập đạt được với các nguồn lực sử dụng chúng, kết quả là một số tương đối trong đó tử số là các biến lợi nhuận còn mẫu số là các nguồn hình thành nên lợi nhuận.
Tỷ suất sinh lợi được tính bằng phần trăm, giúp đánh giá đúng đắn kết quả kinh doanh của ngân hàng hơn so với con số lợi nhuận tuyệt đối, đánh giá chất lượng công tác của ngân hàng dựa trên quy mô kinh doanh của ngân hàng.
Tỷ suất sinh lợi là chỉ tiêu, thước đo đánh giá thành quả hoạt động của ngân hàng, thước đo cho phép so sánh giữa thành quả và rủi ro giữa ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác và khả năng thành công của ngân hàng.
Tỷ suất sinh lợi giúp các nhà quản trị đo lường hiệu quả ở các khía cạnh kỹ năng, xoay sở, khéo léo trước tình hình kinh tế và là động lực thúc đẩy nhà điều hành trong việc hoạch định các chiến lược, quyết định tài trợ, đầu tư, kinh doanh trong một giai đoạn.
Tỷ suất sinh lợi cũng thể hiện sức mạnh tài chính dài hạn của ngân hàng được đánh giá thông qua kết quả hoạt động kinh doanh và bảng cân đối kế toán.
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các Ngân hàng thương mại Việt Nam - Nguyễn Trần Dũng - 1
- Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của các Ngân hàng thương mại Việt Nam - Nguyễn Trần Dũng - 2
- Lược Khảo Các Nghiên Cứu Thực Nghiệm Liên Quan Đến Tỷ Suất Sinh Lợi Của Ngân Hàng
- Tóm Tắt Cách Tính Các Biến Và Sự Kỳ Vọng Dấu Của Các Biến Trong Mô Hình
- Kết Quả Hồi Quy Của Các Yếu Tố Tác Động Đến Tỷ Suất Sinh Lợi Nhtm Việt Nam Được Đại Diện Bởi Roa
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
2.1.1.2 Các chỉ tiêu đo lường tỷ suất sinh lợi của ngân hàng
Vì lợi nhuận là số tuyệt đối nên nếu so sánh số tuyệt đối giữa các ngân hàng không cùng quy mô sẽ không chuẩn xác vì vậy phải dùng tỷ suất sinh lợi để so sánh trong trường hợp này. Trong rất nhiều chỉ tiêu đo lường tỷ suất sinh lợi, tác giả chỉ tập trung hai chỉ tiêu chính sau:
Tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản (ROA)
ROA = Lợi nhuận ròng/Tổng tài sản
ROA là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả quản lý của ngân hàng, nó chỉ ra khả năng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng.
ROA cung cấp cho các nhà đầu tư thông tin về khoản lãi được tạo ra từ lượng tài sản của ngân hàng. Đây là chỉ tiêu được sử dụng trong hầu hết các bài nghiên cứu đo lường khả năng sinh lợi của các ngân hàng. ROA thể hiện khả năng của ngân hàng trong việc sử dụng các tài sản để tạo ra lợi nhuận. ROA càng cao thể hiện khả năng quản lý của Ban quản trị ngân hàng trong việc chuyển tài sản của ngân hàng thành lợi nhuận ròng, và cho thấy cơ cấu tài sản của ngân hàng hợp lý. Do đó, ROA càng cao thì khả năng sinh lợi của ngân hàng càng cao. Ngoài phụ thuộc vào các yếu tố nội tại bên trong ngân hàng, ROA còn phụ thuộc vào những yếu tố vĩ mô.
Mặc dù ROA không tính đến các yếu tố ngoại bảng ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng nhưng ROA vẫn được xem là chỉ tiêu đo lường khả năng sinh lợi tốt nhất, do ROA không bị ảnh hưởng bởi sự tăng cao của nguồn vốn và ROA thể hiện khả năng tạo ra lợi nhuận của ngân hàng từ danh mục tài sản của chính ngân hàng đó.
Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE = Lợi nhuận ròng/Vốn chủ sở hữu
ROE thể hiện 1 đồng vốn chủ sở hữu của ngân hàng sẽ mang về bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm). Do đó, ROE sẽ đánh giá lợi ích mà cổ đông (chủ sở hữu ngân hàng) có được từ nguồn vốn bỏ ra nên việc nghiên cứu ROE sẽ giúp ngân hàng đánh giá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của chính ngân hàng.
ROE càng cao chứng tỏ ngân hàng sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, cơ cấu nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn của ngân hàng hợp lý và hiệu quả. Do đó, khi ROE càng cao thì cổ phiếu ngân hàng đó sẽ được đánh giá cao và thu hút các nhà đầu tư. Các nhà điều hành ngân hàng luôn muốn tăng ROE để đáp ứng và làm hài lòng yêu cầu của cổ đông thông qua các biện pháp như quản trị rủi ro, kiểm soát nợ xấu,… ROA hay ROE đều đóng góp vào việc phân tích, đánh giá khả năng sinh lợi của ngân hàng. Mỗi chỉ số đều có những mặt ưu điểm và hạn chế riêng, có ý nghĩa khác
nhau nên việc đánh giá đồng thời hai chỉ số này sẽ giúp ta có một cái nhìn toàn diện về hiệu quả sử dụng vốn cũng như tài sản của ngân hàng.
Các chỉ số khác
Ngoài hai chỉ số ROA và ROE, cũng có một chỉ số khác đánh giá TSSL của các NHTM như sau:
+ Tỷ suất sinh lợi trên thu nhập (ROS):
ROS = Lợi nhuận ròng/Tổng thu nhập
ROS phản ánh nếu ngân hàng thu được 100 đồng thu nhập thì có được bao nhiêu đồng lợi nhuận, phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng dành cho nhà đầu tư và thu nhập của ngân hàng. ROS phụ thuộc vào chiến lược, mục tiêu trong các giai đoạn của từng ngân hàng, nên ROS chủ yếu được dùng để đánh giá từng ngân hàng đối với mặt bằng trung bình của cả ngành.
+ Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM):
NIM được xác định bằng chênh lệch giữa tổng thu nhập từ lãi và tổng chi phí trả lãi trên cho tổng tài sản có sinh lời bình quân. Trong đó, tổng tài sản có sinh lời bình quân được xác định theo các khoản mục tiền gửi tại Ngân hàng nhà nước, các TCTD, cho vay khách hàng, cho vay các tổ chức tín dụng khác, chứng khoán đầu tư. Khi tỷ lệ thu nhập lãi cận biên này càng cao thì khả năng sinh lời của ngân hàng càng cao. Do đó, NIM cho thấy được khả năng của toàn thể cán bộ nhân viên ngân hàng cũng như năng lực quản trị, điều hành của Hội đồng quản trị trong việc duy trì tăng trưởng nguồn thu so với mức tăng trưởng chi phí.
Tuy nhiên, NIM vẫn chưa phải là một chỉ số tối ưu, toàn diện khi NIM vẫn còn một số hạn chế: thứ nhất đối với thu nhập thì NIM không tính đến thu nhập ngoài lãi và thu nhập từ phí dịch vụ, thứ hai đối với chi phí thì NIM không xét đến chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, chi phí tài sản, chi phí nhân sự.
+ Tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên (NNIM):
NNIM đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi và chi phí ngoài lãi trên cho tài sản có sinh lời. Trong đó, nguồn thu ngoài lãi chủ yếu là nguồn thu phí
từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, và chi phí tổn thất tín dụng).
+ Tỷ lệ thu nhập trên vốn sử dụng (ROCE):
Tỷ lệ thu nhập trên vốn sử dụng là chỉ số thể hiện khả năng thu lợi nhuận của ngân hàng dựa trên lượng vốn đã sử dụng, trong đó vốn sử dụng là phần chênh lệch giữa tổng tài sản và nợ ngắn hạn. ROCE càng cao thì khả năng sinh lợi của ngân hàng càng cao (theo Gul, Irshad và Zaman, 2011). ROCE được tính toán theo công thức: Lợi nhuận trước thuế và lãi vay chia cho vốn sử dụng.
2.1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của ngân hàng thương mại
Tỷ suất sinh lợi là mục tiêu cuối cùng của các NHTM, bởi vậy việc gia tăng tỷ suất sinh lợi cho NHTM là điều rất cần thiết. Tuy nhiên, để gia tăng tỷ suất sinh lợi của NHTM, cần phải làm rò được các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của NHTM nhằm hạn chế những rủi ro làm giảm tỷ suất sinh lợi của NHTM, tạo cộng hưởng đối với những yếu tố ảnh hưởng có lợi đến tỷ suất sinh lợi của NHTM. Hiệu quả hoạt động của NHTM chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Các yếu tố chủ quan là yếu tố bên trong của ngân hàng được xác định bởi các quyết định và chính sách quản lý của ngân hàng như: quy mô ngân hàng, tỷ lệ cho vay, quy mô tiền gửi,…. Đồng thời, hiệu quả hoạt động của NHTM bị tác động bởi các yếu tố kinh tố vĩ mô. Trong các nghiên cứu trước đây, những yếu tố kinh tế vĩ mô thường được sử dụng là tốc độ tăng trưởng sản phẩm quốc nội hàng năm, tỷ lệ lạm phát. Trong luận văn, tác giả nghiên cứu hai nhóm yếu tố chính: nhóm yếu tố đặc trưng của NHTM và nhóm các yếu tố vĩ mô. Trong nghiên cứu này tác giả không đề cập đến các yếu tố như: sự ổn định của hệ thống chính trị, môi trường đầu tư, môi trường pháp lý, năng lực quản trị điều hành của lãnh đạo NHTM, khả năng ứng dụng công nghệ và chất lượng nguồn nhân sự.
2.1.2.1 Yếu tố thuộc về nội tại ngân hàng
- Quy mô ngân hàng
Hiện nay, trong hoạt động kinh doanh ngân hàng thì tổng tài sản được sử dụng như chỉ tiêu để đánh giá quy mô ngân hàng. Tài sản của ngân hàng bao gồm tài sản
sinh lời và tài sản không sinh lời, trong đó tài sản sinh lời chiếm tỷ trọng cao còn tài sản không sinh lời chỉ chiếm một tỷ trọng rất thấp, thường 10-20%. Nếu như ngân hàng có tài sản sinh lời càng cao thì sẽ đem đến lợi nhuận càng cao. Do đó, việc đánh giá chất lượng tài sản là rất quan trọng. Đánh giá được quy mô, chất lượng tài sản sẽ quyết định rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của NHTM. Bởi vì đây là cơ sở để xác định năng lực tài chính, khả năng quản lý, điều hành của NHTM.
Hai hoạt động chính đóng góp vào sự phát triển quy mô tổng tài sản của ngân hàng là hoạt động tín dụng và hoạt động đầu tư. Trên bảng cân đối kế toán, các khoản mục đầu tư bao gồm: góp vốn đầu tư dài hạn, chứng khoán đầu tư và kinh doanh. Hoạt động này được đánh giá thông qua các chỉ tiêu như: quu mô, tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ dự phòng giảm giá chứng khoán,.… Ngày nay, với việc mở rộng quy mô hoạt động cũng như việc lưu thông hàng hóa quốc tế, quan hệ hợp tác phát triển toàn diện giữa các nền kinh tế thì các yếu tố về sự ổn định chính sách pháp luật nước ngoài, biến động chính trị các nước trên thế giới, sự biến động tỷ giá,… sẽ ảnh hưởng đến tình hình sử dụng tài sản ở nước ngoài, mối tương quan giữa tài sản nước ngoài và tài sản ngoại tệ trong tổng tài sản của ngân hàng.
Theo Rose (1999), quy mô hoạt động có mối quan hệ chặt chẽ đến chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm đầu ra. Từ đó, ảnh hưởng đến lợi nhuận đạt được của ngân hàng. Mối quan hệ này được biểu diễn dưới dạng hình gần giống như chữ U. Có ba giai đoạn thể hiện sự ảnh hưởng khác nhau của quy mô tài sản đến chi phí hoạt động trên một đơn vị sản phẩm đầu ra của ngân hàng. Giai đoạn đầu tiên, khi ngân hàng gia tăng quy mô, chi phí sẽ giảm dần, điều này làm tỷ suất lợi nhuận của ngân hàng có xu hướng gia tăng. Mối tác động này được đánh giá là tích cực và đây được gọi là giai đoạn lợi thế từ quy mô. Giai đoạn thứ hai, sự gia tăng của quy mô không làm thay đổi chi phí hoạt động trên mỗi đơn vị sản phẩm. Khi hoạt động trong miền này, chi phí hoạt động trên mỗi đơn vị sản phẩm là thấp nhất, do đó hiệu quả đạt được là cao nhất. Tuy nhiên, khi ngân hàng gia tăng quy mô, tỷ suất sinh lợi của ngân hàng sẽ không đổi. Giai đoạn này được gọi là giai đoạn hiệu suất không đổi theo quy mô. Giai đoạn thứ ba, sự gia tăng quy mô làm gia tăng chi phí trên mỗi đơn vị sản phẩm.
Trong giai đoạn này, ngân hàng gặp phải các vấn đề về sự tăng nhanh trong chi phí quản lý, chi phí nhân viên. Đồng thời, việc đầu tư vào các tài sản dài hạn mang lại hiệu quả không cao. Kết quả là tỷ suất sinh lợi của ngân hàng bị giảm sút. Mối tác động này được đánh giá là tiêu cực và đây được gọi là giai đoạn bất lợi thế từ quy mô.
- Quy mô vốn chủ sở hữu
Hoạt động kinh doanh của ngân hàng đi kèm với nhiều rủi ro như phá sản, mất niềm tin của khách hàng hay rủi ro về suy thoái vốn,.... Do đó, để hạn chế những rủi ro trên thì ngân hàng cần bổ sung vốn chủ sở hữu trong quá trình kinh doanh. Vốn chủ sở hữu là chỉ số quan trọng phản ánh mức độ an toàn vốn của chủ sở hữu. Vốn chủ sở hữu của NHTM là toàn bộ nguồn vốn thuộc sở hữu của chủ ngân hàng, của các thành viên trong đối tác liên doanh hoặc các cổ đông trong ngân hàng,....
Vốn chủ sở hữu được cấu thành từ hai bộ phận: vốn chủ sở hữu ban đầu và vốn chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh. Trên Bảng cân đối kế toán, vốn chủ sở hữu bao gồm các khoản mục sau: vốn điều lệ, lợi nhuận chưa phân phối và các quỹ. Cụ thể: vốn điều lệ thể hiện phần vốn góp của các cổ đông được ghi và thỏa thuận trong điều lệ ngân hàng và đây là phần chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Đây là phần vốn góp ban đầu mà các cổ đông góp vốn: đối với NHTM Nhà nước thì đây là phần vốn do ngân sách Nhà nước cấp khi mới thành lập; đối với NHTM thì do cổ đông góp vốn thông qua việc mua cổ phần hoặc cố phiếu.
Người gửi tiền sẽ càng cảm thấy an tâm khi gửi tiền vào các NHTM nếu quy mô vốn chủ sở hữu càng lớn bởi lẽ các khoản tiền gửi của khách hàng sẽ được ưu tiên thanh toán trước khi Ngân hàng phá sản hoặc không tiếp tục kinh doanh.
Do đó, vốn của chủ sở hữu được coi là cơ sở tạo niềm tin cho khách hàng và thể hiện khả năng tài chính, năng lực hoạt động của một ngân hàng. Quy mô của ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi nguồn vốn chủ sở hữu, bởi vì vốn chủ sở hữu càng lớn sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh càng lớn cho ngân hàng trên thị trường. Vốn chủ sở hữu chủ yếu được sử dụng để xây dưng trụ sở, tài sản cố định, máy móc thiết bị, đầu
tư công nghệ, hệ thống. Các ngân hàng có thể mở rộng quy mô, mạng lưới hoạt động bằng việc mở thêm các chi nhánh, phòng giao dịch, khi đó ngân hàng sẽ dễ tiếp cận được khách hàng hơn. Bên cạnh đó, để mở rộng quy mô thì các ngân hàng cần phải có vốn chủ sở hữu lớn nhằm đáp ứng quy định về vốn điều lệ và quỹ dự trữ khi góp vốn đầu tư vào các công ty, ngân hàng khác hay thành lập công ty con riêng.
- Tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản
Ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, làm trung gian tài chính để thúc đẩy dòng vốn chảy từ người tiết kiệm sang người cần vay, làm cho dòng vốn luân chuyển nhanh hơn trong nền kinh tế. Ở các nước đang phát triển, hệ thống ngân hàng còn trở thành cầu nối giữa người tiết kiệm và nhà sản xuất, nhà đầu tư. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ yếu của NHTM để tạo lợi nhuận. Doanh thu từ hoạt động cho vay sẽ bù đắp chi phí tiền gửi, tỷ lệ dự trữ, chi phí kinh doanh quản lý, chi phí rủi ro đầu tư,…. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng tác động đến nhiều đối tượng trong nền kinh tế: người gửi tiền, người vay, cổ đông, khách hàng tiềm năng,…. Thực tế cho thấy, khi doanh nghiệp muốn vay vốn, ngân hàng phải dựa trên nhiều tiêu chí để đánh giá mức tín nhiệm của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nào có vốn lớn, tài sản lớn, khả năng trả nợ cao sẽ rất dễ vay với lãi suất thấp. Cho vay là nguồn thu nhập chính và thường có mối quan hệ cùng chiều với lợi nhuận hoạt động của ngân hàng trừ khi ngân hàng có rủi ro vượt mức chấp nhận được. Vì thế, quy mô cho vay càng lớn thì tỷ suất sinh lợi của ngân hàng càng cao. Tuy nhiên, nếu ngân hàng tăng tỷ lệ cho vay cao hơn so với tài sản, khi đó lợi nhuận giảm sẽ làm rủi ro tăng lên do các khoản nợ xấu. Do đó, mối tương quan cùng chiều hay ngược chiều giữa quy mô cho vay và lợi nhuận sẽ phụ thuộc vào chất lượng của khoản
vay.
- Tỷ lệ tiền gửi trên tổng tài sản
Tiền gửi là nguồn huy động vốn chính có chi phí thấp của ngân hàng. Khi tiền gửi tăng cao và vốn huy động được sử dụng mục đích cho vay những khách hàng tốt càng nhiều thì khả năng sinh lợi càng cao. Tiền gửi cao giúp các ngân hàng hoạt động tốt và kịp thời đáp ứng được nhu cầu cho vay của khách hàng. Tuy nhiên, khi cạnh
tranh trong ngân hàng tăng, các ngân hàng phải tăng lãi suất huy động so với mặt bằng chung để thu hút tiền gửi, dẫn đến chi phí tăng cao và lợi nhuận giảm.
- Khả năng thanh khoản
Theo kỳ vọng của các tác giả sử dụng biến phản ánh về mức độ thanh khoản đến lợi nhuận ngân hàng nêu trên, một ngân hàng duy trì một tỷ lệ tài sản thanh khoản cao sẽ đối mặt với rủi ro tài chính thấp. Đồng thời, những tài sản có tính thanh khoản cao có suất sinh lời thấp nhất trong cơ cấu danh mục đầu tư của ngân hàng.
- Chất lượng tín dụng
Tín dụng là nguồn tạo ra thu nhập chủ yếu của các NHTM. Do đó, chất lượng các khoản cấp tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của ngân hàng. Chất lượng tín dụng thấp nếu khả năng hoàn trả của khách hàng bị giảm sút. Điều này sẽ làm thu nhập của ngân hàng giảm, đồng thời ngân hàng phải gia tăng chi phí dự phòng rủi ro. Vì vậy, lợi nhuận của ngân hàng sẽ giảm.
- Một số yếu tố khác
Một số yếu tố khác có ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của NHTM như tốc độ mở rộng hoạt động, việc đầu tư, góp vốn vào công ty con, công ty liên kết, tỷ lệ giữa các loại chi phí, sự đa dạng hóa thu nhập, thị phần hoạt động, hình thức sở hữu, năng lực quản trị của ngân hàng, chất lượng của đội ngũ cán bộ,….
2.1.2.2 Yếu tố kinh tế vĩ mô
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lợi của Ngân hàng nằm ngoài khả năng kiểm soát của các nhà quản trị, không thể đo lường trước được. Tuy nhiên, các nhà quản trị vẫn có thể dự báo được những thay đổi này và xây dựng chiến lược phù hợp sự phát triển của ngân hàng cũng như hạn chế những tác động không mong muốn do các yếu tố bên ngoài.
Khi kinh tế phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho các công ty có thể phát triển sản xuất, mở rộng quy mô, khi đó hoạt động cho vay của ngân hàng tăng do các doanh nghiệp có điều kiện hỗ trợ kinh doanh, khả năng trả nợ cao hơn góp phần vào việc giảm rủi ro tín dụng, giảm chi phí và làm tăng tỷ suất sinh lợi của