Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương - 9



Toan tấp tểnh những đường tu lý

(Đĩ rạc đi tu)

Con tấp tểnh đi bồi

(Than cùng)

Được voi tấp tểnh lại đòi tiên

(Bực mình)

Lại còn tấp tểnh với đàn em

(Già chơi trống bỏi)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Đặc biệt, chúng ta cũng thấy trong hệ thống từ ngữ thơ Tú Xương khi miêu tả nhân vật, ông đều đẩy từ ngữ miêu tả đến cực điểm. Đây cũng là một cách viết giống thi sĩ Hồ Xuân Hương với những câu như: già thì phải già tom, chín thì phải chín mõm mòm...

Tú Xương lại có sự duyên dáng khác, ông nhờ vào những từ ngữ thông tục để cá thể hoá các nhân vật và chạm khắc nên những nhân vật thật ấn tượng. Đó là viên quan Phòng thành “đen kịt”, ông quan “Đốc thì lang”, Cậu Ấm “mốc thếch như trăn gió”, người bán sắt “mũi nó gồ gồ, trán nó dô”… hay đó là những âm thanh, hình ảnh đẩy đến mức cực điểm như:

Yếu tố phi truyền thống trong thơ Trần Tế Xương - 9

Đì đẹt ngoài sân tràng pháo chuột Loẹt lòe trên vách, bức tranh gà Chí cha chí chát khua giày dép Đen thủi đen thui cũng lượt là

(Ngày xuân ngẫu hứng)

Tú Xương không dùng những từ ngữ hán việt sang trọng mà ông ước lệ hoá những từ ngữ bình dân, dân gian: thân cò, phận gái mưa sa, phỗng sành, một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa, yếm trắng, học đã sôi cơm, thi không ăn ớt, vuốt râu nịnh vợ, quắc mắt khinh đời, năm nắng mưới mưa, thân cò lặn lội . . . đã được Tú Xương vận dụng khá độc đáo trong thơ làm cho thơ ông vừa gần gũi, vừa dễ thuộc mà cũng diễn tả



được đúng sự vật, góp phần làm phong phú cho kho từ vựng tiếng Việt- một trong những tiêu chí để đánh giá sự đóng góp quan trọng của các nhà thơ nhà văn:

Vuốt râu nịnh vợ con bu nó Quắc mắt khinh đời cái bộ anh

(Phỗng sành)

Yếm trắng như cô phải chọn chồng

(Vịnh cô Cáy chợ Rồng)

Nghĩ mình phận gái hạt mưa

(Đĩ rạc đi tu)

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

(Thương vợ)

2.2.4.3.2. Ngôn ngữ thông tục hàng ngày đi vào thơ Tú Xương một cách tự nhiên, có bài thơ như là cuộc đối đáp, trò chuyện, từ ngữ mang đậm khẩu ngữ làm cho thơ mang tính chất tự sự, rồi xen lẫn trong thơ có cả tiếng Tây, thậm chí là tiếng chửi… làm cho thơ Tú Xương có một không khí khác lạ so với thơ ca truyền thống.

Sử dụng ngôn ngữ hàng ngày, tươi mát, tự nhiên mà vẫn thanh nhã, óng chuốt.

Mấy câu sau đây như lời nói ở cửa miệng, không thêm bớt mà rất chân thành: Tôi hỏi thăm ông đến tận nhà,

Trước nhà có miếu, có cây đa Cửa hè sân ngõ chừng ba thước, Nửa tá tre pheo đủ một tòa . . .

(Ông ấm Ðiềm) Hoặc đây là cách nói ngang tàng nhưng rất tự nhiên:

Gái tơ đi lấy làm hai họ

Năm mới vừa sang được một ngày

(Viếng cô Ký)



“Hai họ” là vợ hai, đối với “một ngày” tức mùng một tết. Vậy câu thơ chỉ giữ cái vỏ của phép đối mà vượt qua những ràng buộc khác khiến cho lời thơ của Tú Xương không những êm tai, sướng miệng mà còn rất độc đáo, có giá trị châm biếm cao.

Lối nói khẩu ngữ khiến thơ Tú Xương đi ngược với thơ ca truyền thống. Cuộc sống đời thường như phơi bày hết cả trong thơ ông. Đó là tiếng phân bua của người kẻ chợ:

Thôi thế thì thôi đành tết khác Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo

(Cảm tết)

Hay là tiếng bỡn cợt của đôi vợ chồng thị dân nhưng cũng đầy tình tứ:

Hỏi mẹ mày rằng dốt hay hay Thưa rằng hay thực là hay Không hay sao lại đỗ ngay tú tài Xưa nay em vẫn chịu ngài

(Tết dán câu đối)

Bên cạnh những từ xưng hô thông tục và thông dụng như: ta, ông, người, bác… thì trong thơ Tú Xương xuất hiện những lối xưng hô hiện đại: ngài- em, anh- em, mình- tớ…:

Yêu nhau chẳng lấy được nhau nào Mình nghĩ làm sao tớ nghĩ sao

(Gửi cho cố nhân)

Ông đã dân gian hoá thơ ca nhà nho bằng những đại từ nhân xưng đầy dân dã, nhưng cũng đầy táo bạo của một nhà nho:

Em gửi cho anh tấm lụa đào

…Không biết rằng em bán thế nào

(Tặng người quen)



Bên cạnh đó, sự xuất hiện của một lớp từ xưng hô mang đậm sắc thái dân gian và địa phương: mẹ mày, bu nó, nhà thầy, mẹ đĩ, cha cu, mụ nọ… đã góp phần tô đậm thêm nét riêng cho sắc thái trữ tình của ngôn từ nghệ thuật trong thơ ca ông Tú.

Khẩu ngữ đường phố đã làm cho giọng điệu của những lời than đời của cái tôi nhà thơ sâu lắng nồng nàn bao nhiêu thì khẩu ngữ cũng làm cho tiếng chửi của cái tôi nhà thơ cay độc bấy nhiêu:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

(Thương vợ)

Đó chỉ là những lời chửi đổng, là lời nói mát để nịnh vợ. Có lúc ta bắt gặp những tiếng chửi chua cay, ngoa ngoắt:

Chẳng hay gian dối vì đâu vậy Bá ngọ thằng ông biết chữ gì

(Chế ông Huyện) Ví phỏng quyển thi ông được chấm Đù cha đù mẹ đứa riêng ai

(Đùa ông Hàn)

Không thâm trầm sâu sắc như tiếng chửi trong thơ Nguyễn Khuyến, tiếng chửi trong thơ Tú Xương dữ dội, mạnh mẽ không kiêng dè. Tiếng chửi hết sức tự nhiên, vụt ra thành thơ:

Thi thế mà cũng thi Ới khỉ ơi là khỉ

(Than sự thi)

Tiếng chửi có khi nhẹ nhàng, có khi gay gắt, có lúc đến nhỏ nhen khiến thơ của một nhà nho chạm đến sự bình dân, thông tục. Tiếng chửi thể hiện nỗi bất bình với hiện tại bắt đầu rối ren, nhưng cũng thể hiện sự mất bình tĩnh, không điều tiết được



cảm xúc cá nhân trong thế quân bình. Tiếng chửi cũng thể hiện được tâm địa không mấy phóng khoáng của cái tôi trữ tình trong cách nhìn thế giới khách quan.

Lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam, ngôn ngữ tây ta được kết hợp vần vè như thế. Mặc dù số lượng rất ít, nhưng việc điểm một số từ tây vào thơ khiến cho thơ ông có sự mới lạ:

“Cống hỉ, méc – xì thông mọi tiếng Không sang Tàu thì cũng tích sang Tây”

(Hễ mai tớ hỏng) Mợ bảo vần Tây chẳng khó gì

Cho tiền đi học để chờ thì

Thôi thôi lạy mợ “xanh căng” (năm mươi) lạy Mả tổ tôi không táng bút chì

(Không học vần tây)

Vì vậy, GS. Trần Mạnh Hảo nhận xét: “Thơ Tú Xương tuy còn mặc áo the khăn đóng nhưng chất thơ đã Tây lắm rồi”.

Tú Xương là vị tư lệnh có tài lớn trong việc điều khiển đội quân ngôn từ. Ngôn ngữ thơ Tú Xương có đủ khả năng đi đến tận cùng vào thế giới cảm xúc, thế giới tiếng cười, sâu sắc, đa dạng và huyền diệu. Trên con đường phát triển thơ ca dân tộc, hiện tượng cách tân trong thơ Tú Xương đáng được xem là một mốc quan trọng. Thơ Tú Xương đã bỏ qua bút pháp ước lệ, trừu tượng, công thức, mĩ hóa vốn là đặc trưng của nghệ thuật thơ ca truyền thống để đến thẳng với cuộc sống trần trụi như nó vốn có. Viết về người thật, việc thật mà thành thơ hay, với Tú Xương, trở thành hiện tượng độc đáo trong sáng tạo thơ ca.

2.2.5. Thể loại

Về thể loại, Tú Xương hầu như không có cách tân hay sáng tạo thể loại mới, song ông lại có công làm mới thể loại. Ông vẫn sử dụng các thể loại truyền thống như



thơ nôm đường luật, lục bát, hát nói. Trong mỗi thể loại, cách viết có sự biến tấu khiến các thể loại đó mang màu sắc hiện đại hơn.

2.2.5.1. Thơ Nôm đường luật

Đây là thể thơ chiếm số lượng nhiều nhất trong kho tàng thơ Tú Xương. Thơ nôm đường luật của Tú Xương có đủ cả ngũ ngôn, thất ngôn. Thơ đường luật của ông vẫn dùng để tặng (Tặng người quen, Tặng cô đầu), để khóc (Khóc vợ bạn, Khóc em gái), để than (Than cùng, Than nước lụt, Than thân chưa đạt), để gửi (Gửi cô đào, Gửi bạn thi đỗ, Gửi cố nhân), để vịnh cảnh (Sông Lấp, Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu)… Như vậy, Tú Xương cũng bộc lộ cảm hứng qua hình thức và thi đề mang tính quy phạm của thơ nhà nho, nhưng ông không nhằm mục đích ngôn chí, thuật hoài mà cốt bộc lộ cảm hứng của cái tôi thị dân trong một môi trường đang có sự thay đổi sâu sắc. Cảm hứng thị dân của cái tôi nhà thơ trong thơ đường luật không chỉ phá vỡ hệ thống thơ ngôn chí với các kiểu đề tài trung hiếu, vịnh sử của các nhà nho mà sự xuất hiện của chùm thơ về cảnh phố và cảnh trường thi trong thơ đường luật của Tú Xương còn phá vỡ luôn cả hệ thống đề tài thiên nhiên vốn là đề tài lớn muôn thuở xuyên suốt thơ nôm đường luật. Thi đề và cảm hứng thị dân, Tú Xương đã làm việt hóa thơ nôm đường luật, làm nên một kiểu thơ trữ tình thay thế kiểu thơ trữ tình truyền thống trong thơ Nôm luật đường nhà nho.

Nét mới trong thơ nôm đường luật của Tú Xương là ông sử dụng đối ngẫu và tập cổ theo một cách mới (mặc dù rất ít sử dụng lối tập cổ, dụng điển). Đối ngẫu là một đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ thơ ca trung đại. Nó là một nguyên tắc nghệ thuật đồng thời cũng là một quan điểm thẩm mỹ của người trung đại do cảm quan về vũ trụ tuần hoàn và hệ âm dương với sự tương thông và hô ứng của vạn vật. Hình thức đối ngẫu trong thơ làm nên sự cân đối, nhịp nhàng, trang nhã, cổ kính trong thơ đường luật. Tú Xương cũng sử dụng đối ngẫu, cả song đối và tiểu đối. Song đối ngẫu không được Tú Xương dùng để tạo ra sự đăng đối, nhịp nhàng, trang nhã, cổ điển theo quy phạm đối



ngẫu của thơ đường luật truyền thống, mà đối ngẫu trong thơ Tú Xương chỉ để làm cụ thể hoá đối tượng được miêu tả:

Mắt thì lơ láo, mặt thì xanh

(Tự vịnh) để tô đậm hơn sự kém cỏi của bản thân:

No ấm chưa qua vành mẹ đĩ

Đỗ đành may khỏi tiếng cha cu

(Hỏi mình)

để vẽ lên khung cảnh nhốn nháo trào phúng nơi trường thi:

Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng

(Giễu người thi đỗ)

Đặc biệt, các vế đối của Tú Xương còn là những phép tương phản, so sánh đầy táo bạo, làm nổi bật lên các sự vật và sự tương quan của nó:

Nuôi đủ năm con với một chồng

(Thương vợ)

Cũng như đối ngẫu, điển cố và tập cổ cũng là thủ pháp nghệ thuật mang tính điển phạm của thơ Nôm đường luật. Trong thơ ca truyền thống, việc dùng điển cố và tập cổ không chỉ là một nguyên tắc nghệ thuật mang tính quy phạm mà còn là tiêu chuẩn để đánh giá tính uyển súc và thước đo tài năng của nhà thơ. Đỗ Phủ từng cho rằng: dụng điển như dùng muối, có nghĩa là không được nhiều nhưng cũng không được thiếu. Tú Xương sử dụng điển cố và tập cổ trong thơ rất ít. Nhưng cách dụng điển và tập cổ của ông cũng rất khác biệt so với thơ ca truyền thống. Ngoài việc sử dụng điển cố trong thi liệu hán học như các nhà thơ trung đại, Tú Xương còn sử dụng điển cố trong kho tàng dân gian Việt Nam:

Đất nọ vẫn thường hay có chạch

(Ngẫu hứng)



Dẫu không bia đá còn bia miệng

(Đổi thi)

Được voi tấp tểnh lại đòi tiên

(Bực mình)

Sự mờ nhạt tính chất bác học trong các điển cố của Tú Xương một phần là do nhà thơ không sử dụng điển cố theo quy phạm phản ánh cuộc sống nhàn tản, ẩn dật, khẳng định phẩm chất kẻ sĩ và nỗi niềm hoài cổ. Tú Xương dụng điển cố chủ yếu là để thể hiện cảm hứng cá nhân trước thế giới hiện thực khách quan khác lạ trước: môi trường thị dân. Do đó, giọng điệu Tú Xương trong những lần dụng điển này khá đa điệu, vừa sâu lắng trữ tình, vừa hài hước châm biếm hóm hỉnh.

Tóm lại, không có mấy sự đột phá trong cách thể hiện, song Tú Xương cũng góp phần làm việt hoá thơ nôm đường luật, khiến nó dân dã, gần gũi hơn với người đọc, không chỉ hình thức, mà kể cả xây dựng hình tượng mới trong thơ.

2.2.5.2. Thơ lục bát

Có thể nói, đây là thể thơ xuất hiện ít nhất trong kho tàng thơ Tú Xương. Với số lượng 7 bài thơ (Sông Lấp, Áo bông che bạn, Đi hát mất ô, Hoá ra dưa, Hỏi ông trời, Hỏi ông trăng, Khóc bạn), nhưng thơ lục bát Tú Xương có sự độc đáo riêng nhờ sự hàm súc, và phong phú về thi tài.

Những bài thơ lục bát của Tú Xương mang đậm hơi thở của ca dao. Phá vỡ không gian trữ tình truyền thống bằng một kiểu trữ tình đậm tính thị dân nhưng nhân vật trữ tình trong thơ Tú Xương vẫn giãi bày nỗi niềm trong những khoảnh khắc trữ tình truyền thống. Vẫn là những không gian và thời gian quen thuộc trong ca dao: chiều chiều, hôm nay, hôm qua, đêm đêm

Đêm nghe tiếng ếch bên tai

Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò

(Sông Lấp) Hôm qua anh đến chơi đây

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 28/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí