Yếu Tố Liên Quan Tới Tình Trạng Thiếu Máu Ở Trẻ


Yếu tố nguy cơ với SDD thể thấp còi bao gồm: Kiến thức NDTN, chi tiêu cho ăn uống bình quân đầu người thấp, bà mẹ có trên 3 con, trẻ đi học nhà trẻ mẫu giáo, trẻ không sử dụng sữa và sản phẩm của sữa trong 24 giờ qua. Tương tự với mối liên quan tới SDD thể nhẹ cân, một lần nữa kiến thức nuôi dưỡng trẻ nhỏ của bà mẹ liên quan đến tình trạng SDD thấp còi ở trẻ. Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra KT-TH liên quan đến tình trạng SDD ở trẻ [17], [43]. Chi tiêu ăn uống bình quân đầu người trên một tháng thấp liên quan đến SDD, kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu ở Hà Tây [62]. Khi chi tiêu bình quân cho ăn uống thấp, cũng gợi ý rằng khẩu phần ăn của trẻ sẽ thấp và là một yếu tố nguy cơ dẫn tới tình trạng SDD ở trẻ. Số con của bà mẹ liên quan đến tình trạng SDD thấp còi, kết quả này tương tự với nghiên cứu khác [62], [67], [80]. Số con đông có thể liên quan đến trình độ văn hóa thấp, tình trạng kinh tế hộ gia đình nghèo hơn và khả năng chăm sóc trẻ kém. Tuy nhiên ngoại trừ một số ít hộ gia đình có tình trạng kinh tế khá giả, học thức cao muốn có nhiều con. Điều này giải thích mối liên quan giữa số con và tình trạng SDD thấp còi ở trẻ. Trẻ đi nhà trẻ có nguy cơ SDD có thể do có một tỷ lệ lớn (73,4%) trẻ em được gửi tại các nhà trẻ tư thục hoặc nhóm trẻ gia đình. Chế độ ăn ở nhà trẻ tư thục có lẽ chưa đảm bảo chất lượng và số lượng đối với trẻ vì những lý do lợi nhuận và khả năng chi trả của gia đình trẻ. Trẻ ở nhà được mẹ chăm sóc, hoặc bà nội ngoại chăm sóc nên có thể có chế độ dinh dưỡng và chăm sóc tốt hơn. Kết quả này cho thấy sự phổ biến của nhà trẻ tư thục, nhóm trẻ gia đình ở địa bàn nghiên cứu và gợi ý rằng chế độ ăn, điều kiện chăm sóc trẻ ở các nhà trẻ tư thục, nhóm trẻ gia đình cần được khảo sát.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng với những trẻ trên 6 tháng tuổi trong 24 giờ qua không được sử dụng sữa hay các sản phẩm của sữa có nguy cơ SDD cao hơn những trẻ được uống sữa. Sau 6 tháng sữa mẹ giảm cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt ở những bà mẹ không biết cách cho con ngậm bắt vú đúng có thể làm cho sữa mẹ tiết ít hơn hoặc dẫn đến mất sữa. Số lượng sữa có thể không đủ cho trẻ bú sau 6 tháng, nhu cầu dinh dưỡng của trẻ đòi hỏi được đáp ứng thêm ngoài sữa mẹ càng cao. Nếu trẻ được bổ sung thêm sữa và sản phẩm của sữa vào giai đoạn từ 6 tháng


tuổi trở lên sẽ làm cho trẻ có nguồn dinh dưỡng bổ sung dồi dào hơn, dễ hấp thu hơn và đa dạng hơn sẽ tốt cho trẻ hơn. Điều này cho thấy các loại sữa và sản phẩm từ sữa sẵn có trên thị trường có thể là nguồn quan trọng trong việc bổ sung dinh dưỡng cho trẻ từ 6-36 tháng tuổi.

4.1.3.2. Yếu tố liên quan tới tình trạng thiếu máu ở trẻ


Kết quả phân tích hồi quy đa biến cho thấy 2 yếu tố liên quan đến tình trạng thiếu máu ở trẻ một cách có ý nghĩa thống kê đó là sử dụng đa dạng thực phẩm không đạt và không sử dụng sữa & sản phẩm của sữa trong 24 giờ qua. Không sử dụng đa dạng thực phẩm liên quan tới tình trạng thiếu máu cũng đã được chứng minh bởi nghiên cứu trước đây [26]. Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng chế độ ăn của trẻ không đủ sắt, chất lượng bữa ABS kém, ăn không đủ chất dinh dưỡng và thiếu vi chất selenium liên quan tới thiếu máu [11], [37], [108]. Kết quả này gợi ý rằng các can thiệp cần tuyên truyền cho bà mẹ tiếp tục cho trẻ ăn ĐDTP. Sử dụng sữa & sản phẩm của sữa sẽ làm cho trẻ không có nguy cơ thiếu máu. Phải chăng protein của sữa, các vi chất dinh dưỡng của sữa sẽ giúp tạo máu và hồng cầu phòng tránh thiếu máu khi mà sữa mẹ đã giảm sút về số lượng và chất lượng sau 6 tháng đầu. Do thiếu kiến thức, do thói quen của bà mẹ hoặc do hoàn cảnh kinh tế mà bà mẹ không cho trẻ ăn đa dạng thực phẩm làm cho trẻ thiếu sắt, thiếu các vi chất dinh dưỡng khác và dẫn đến thiếu máu. Việc bổ sung thêm sữa bên ngoài sữa mẹ sẽ giúp giảm nguy cơ thiếu máu. Kết quả này đã gợi ý với những trẻ trên 6 tháng bên cạnh bú mẹ và cho trẻ ABS đa dạng thực phẩm bà mẹ nên cho trẻ sử dụng thêm sữa và các sản phẩm của sữa.

Các kết quả nghiên cứu trên đây cũng đã được sử dụng để xây dựng các thông điệp truyền thông và tuyên truyền trong suốt thời gian can thiệp vừa qua.

4.2. Xây dựng triển khai mô hình truyền thông đa dạng tại tuyến y tế cơ sở

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.


4.2.1. Xây dựng mô hình

Xây dựng và đánh giá hiệu quả mô hình truyền thông đa dạng tại tuyến y tế cơ sở trong phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em tỉnh Khánh Hòa - 16


4.2.1. 1. Mô hình hoạt động


Các nghiên cứu đã cho thấy nguyên nhân SDD rất đa dạng và phức tạp, nhiều nguyên nhân và có liên quan với nhau. Do vậy các can thiệp cải thiện TTDD của trẻ cũng rất đa dạng và tác động vào các nguyên nhân khác nhau ở các cấp độ khác nhau. Mô hình truyền thông đa dạng tại tuyến YTCS có mục tiêu thay đổi KT- TH NDTN của bà mẹ từ đó tác động cải thiện tình trạng dinh dưỡng của trẻ. Đây là một loại can thiệp gián tiếp tác động đến TTDD của trẻ. Đối tượng đích chính của mô hình là PNMT ba tháng cuối, trẻ em và bà mẹ của trẻ từ 0-.24 tháng tuổi. Can thiệp đã nhắm tới hỗ trợ sự phát triển của trẻ trong 1000 ngày đầu đời. Đây là khoảng thời gian quan trọng cho các can thiệp PCSDD [94]. Một trọng tâm của mô hình là xây dựng phòng tư vấn NDTN có lô-gô thương hiệu Mặt Trời Bé Thơ đặt tại TYT (PTV này nhận được hỗ trợ nguồn lực từ dự án Nuôi dưỡng và Phát triển- Alive & Thrive). Các kênh truyền thông đã được sử dụng rất đa dạng bao gồm TTTT và TTGT. TYT là hạt nhân chính của mô hình, là nơi trực tiếp triển khai các hoạt động truyền thông và vận hành PTV. TYT trực tiếp quản lý điều hành và hỗ trợ hoạt động của mạng lưới CTV dinh dưỡng. BQL tuyến tỉnh, tuyến huyện giám sát hỗ trợ các hoạt động của TYT và thực hiện các hoạt động bổ trợ khác. BQL tuyến tình và NCV đã thiết kế sản xuất các tài liệu truyền thông. Việc xây dựng mô hình có sự tham gia của các chuyên gia, đặc biệt là chuyên gia của VDD và Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Bộ Y tế. Mô hình được xây dựng đảm bảo tính khoa học và phù hợp với định hướng của Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng. Mô hình có tính bền vững cao và có khả năng triển khai trên diện rộng với các đặc điểm sử dụng nguồn lực sẵn có tại địa phương, huy động nguồn lực cộng đồng là CTV và tận dụng các cơ hội ảnh hưởng có lợi của các can thiệp các chương trình y tế CSSK ban đầu khác sẵn có tại tuyến YTCS.

Mô hình can thiệp có điểm mới khác với các mô hình truyền thông khác là lần đầu tiên trên thế giới cũng như tại Việt Nam thương hiệu thường sử dụng trong kinh doanh được áp dụng vào dịch vụ tư vấn dinh dưỡng. Can thiệp PTV với thương hiệu Mặt Trời Bé Thơ đã được xây dựng. Thương hiệu này sẽ giúp mô hình nhân rộng với cùng chuẩn mực, cùng chất lượng, nhanh chóng được bà mẹ nhận diện và tin


tưởng. Tại các nước đang phát triển để huy động nguồn lực trong chăm sóc sức khỏe, người ta đã sử dụng hệ thống y tế tư nhân, tập huấn cập nhật kiến thức cho người cung cấp dịch vụ, tạo ra một dịch vụ chuẩn và có thương hiệu riêng, sau đó chuyển nhượng dịch vụ và thương hiệu đó cho các cơ sở y tế tham gia [106]. Người tham gia phải cam kết thực hiện theo quy trình và đảm bảo thương hiệu của dịch vụ. Mô hình dịch vụ và thương hiệu đó cho phép mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ có có cùng chất lượng tăng lượng người sử dụng và tăng lợi ích xã hội. Cơ chế mở rộng đó còn được gọi là nhượng quyền xã hội. Những cơ sở tham gia vào mạng lưới này sẽ được triển khai dịch vụ và sử dụng thương hiệu sẵn có với các điều kiện: Cơ sở được trang thiết bị theo cùng một tiêu chuẩn giống nhau ở tất cả các nơi có dịch vụ này. Người ta đã áp dụng nhượng quyền xã hội các dịch vụ y tế trong điều trị bệnh lao, chăm sóc SKSS ở một số nước như Nepan, Philipine và Việt Nam [106], [120]. Tại Việt Nam thương hiệu “Tình Chị Em” và “BlueStars” đã được biết đến. Thương hiệu “Tình Chị Em” là một trong các sản phẩm đầu tiên của xây dựng mô hình thí điểm nhượng quyền xã hội dịch vụ chăm sóc SKSS trong hệ thống y tế nhà nước, thuộc Dự án "Tăng cường năng lực chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho mạng lưới y tế xã phường của thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hoà”, do tổ chức ATLANTIC Philanthropies tài trợ [41]. BlueStar là nhãn hiệu nhượng quyền được Tổ chức Marie Stopes Internation đăng ký bản quyền quốc tế và sử dụng tại 9 quốc gia trên thế giới, là tập hợp các cơ sở cung cấp dịch vụ y tế tư nhân dưới một nhãn hiệu chung với các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình chăm sóc SKSS [61]. Thương hiệu BlueStar là mạng lưới dành cho các cơ sở y tế tư nhân đầu tiên tại Việt Nam nhằm cung cấp các dịch vụ SKSS.

Trên thế giới rất nhiều mô hình đã được đánh giá và thử nghiệm, các can thiệp được phân ra thành nhiều loại, những can thiệp có tầm vĩ mô như can thiệp chính sách, can thiệp chuyển đổi kinh tế chính trị xã hội cũng tác động mạnh mẽ vào TTDD của trẻ. Các can thiệp trực tiếp bổ sung vi chất dinh dưỡng, cung cấp thực phẩm, tiền mặt được cho là có hiệu quả, nhưng nhược điểm của các mô hình này là chi phí và hiệu quả, tính bền vững khi so sánh với các can thiệp thay thế khác [113].


Các can thiệp kết hợp GDDD phối hợp với tạo nguồn thực phẩm tại hộ gia đình cũng đã được thử nghiệm trên thế giới. Có bằng chứng rằng trồng rau màu tại hộ gia đình có thể làm tăng tính đa dạng chế độ ăn của trẻ và giảm thiếu hụt chất dinh dưỡng. Tại Malawi nghiên cứu can thiệp có GDDD cùng với trồng rau màu tại hộ gia đình đã được đánh giá có hiệu quả [82]. Ở nhóm can thiệp mỗi hộ gia đình có trẻ dưới 24 tháng tuổi tham gia trồng rau màu với diện tích 100 mét vuông. Các loại rau màu được trồng xen kẽ nhau. Các bà mẹ hàng tháng tham gia thảo luận nhóm nhỏ về các chủ đề cho trẻ ABS và tham quan chia sẻ các nguồn lực của hộ gia đình. Sau 6 năm can thiệp mô hình đã được đánh giá có hiệu quả đối với sự phát triển của trẻ. Tăng thu nhập hộ gia đình và tăng tính sẵn có của thực phẩm có thể dẫn đến tăng sử dụng chất dinh dưỡng ở trẻ. Tuy nhiên những can thiệp này cần độ bao phủ rộng lớn và phài là một chương trình dài hạn, phối hợp với ngành nông nghiệp và chỉ có thể thực hiện được ở nông thôn và những nơi có đất trồng.

Các can thiệp sử dụng lực lượng CTV, huy động cộng đồng trong PCSDD cũng được thử nghiệm ở nhiều nơi. Mô hình GDDD tại Nam Phi đào tạo các nhân viên sức khỏe cộng đồng (CTV) về các chủ đề dinh dưỡng, mỗi chủ đề được tập huấn 2 lần. Các chủ đề giáo dục cho CTV bao gồm khầu phần ăn cân đối, chuẩn bị chế biến thức ăn, nhu cầu dinh dưỡng qua các thời kỳ của trẻ. Sau đó CTV tuyên truyền cho bà mẹ tại hộ gia đình, hướng dẫn thực hành, trình diễn bữa ăn mẫu. Đồng thời với hoạt động giáo dục của CTV là hoạt động hỗ trợ thực phẩm cho các hộ gia đình. Thời gian của can thiệp là hai năm. Mô hình cũng đã được đánh giá có hiệu quả với SDD nhẹ cân [125].

Nghiên cứu ở Madagsca đã chỉ ra rằng can thiệp có hiệu quả ở những nơi sử dụng cách tiếp cận có sự tham gia của HPN, hỗ trợ các dịch vụ y tế và tập huấn cho CTV [113]. Mô hình huy động sự tham gia của cộng đồng cũng đã được thực hiện rất đa dạng như huy động sự tham gia của các bà sơ hoặc thành lập ủy ban về dinh dưỡng tại các làng. Các bà sơ được đào tạo để tiến hành thăm hộ gia đình phát hiện trẻ SDD và hỗ trợ bà mẹ giải quyết vấn đề về dinh dưỡng cho trẻ [101]. Tại nước Cộng hòa Dân chủ Công gô mô hình thiết lập Uỷ ban về dinh dưỡng. Ủy ban có


năm thành viên chịu trách nhiệm nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ cho PNMT và các nhà lãnh đạo cộng đồng trong làng [81].

Mô hình truyền thông đa dạng tại tuyến YTCS có hoạt động tương tự như can thiệp tại Senegan. Can thiệp dựa vào cộng đồng được thực hiện bởi tổ chức NGO tại Senegan với tên Dự án tăng cường dinh dưỡng Senegan. Đây cũng là một nghiên cứu can thiệp được thực hiện trên diện rộng. Ngoài một số hoạt động vận động chính sách ở cấp quốc gia, dự án có can thiệp tại vùng nông thôn huy động CBYT cung cấp dịch vụ giám sát dinh dưỡng, tư vấn cho bà mẹ nuôi con nhỏ, khuyến khích các bà mẹ tìm kiếm các dịch vụ chăm sóc tiền sản và hậu sản, TCMR và phối hợp triền khai các hoạt động uống vitamin A, tẩy giun cho trẻ. Can thiệp được đánh giá có hiệu quả sau 2 năm can thiệp. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng can thiệp tư vấn dinh dưỡng cho bà mẹ hoặc đào tạo CBYT về kỹ năng tư vấn dinh dưỡng cũng có hiệu quả cải thiện TTDD của trẻ [76], [137].

So sánh với các can thiệp đã được tiến hành tại Việt Nam, mô hình truyền thông đa dạng sử dụng loại hình TTTT và TTGT tương tự như can thiệp được triển khai tại Chí Linh Hải Dương. Tại Hải Dương can thiệp GDDD cho người cha được triển khai trong vòng 1 năm bằng các hình thức trực tiếp và gián tiếp. Kết quả cho thấy tăng kiến thức của người cha về NCBSMHT nhiều hơn so với nhóm chứng [1].

Tại Việt Nam một số mô hình can thiệp GDDD đã được thử nghiệm. Mỗi một khu vực có mô hình kết hợp khác nhau. GDDD kết hợp với hướng dẫn tạo nguồn thực phẩm hoặc thiết lập quỹ vay vốn tín dụng đã được thử nghiệm tại các vùng nông thôn. Tại các khu vực miền núi sử dụng chức sắc uy tín để tuyên truyền hoặc huy động nguồn lực cộng đồng PCSDD. Tiếp thị sản phẩm và cung cấp sản phẩm sắt phòng chống thiếu máu cũng đã được thử nghiệm. Phương pháp GDDD trong các nghiên cứu can thiệp này bao gồm các hoạt động TTTT nhóm lớn và nhóm nhỏ, hội thảo. Tuyên truyền gián tiếp qua tờ rơi, sách nhỏ. Thành lập các ban chỉ đạo...v.v... Sau đây là các mô hình đã được thử nghiệm:


Mô hình Truyền thông tích cực đến đa dạng hóa bữa ăn và tình trạng dinh dưỡng của bà mẹ và trẻ em, có đối tượng can thiệp từ 6-24 tháng tuổi. Hoạt động can thiệp bao gồm tổ chức hội thảo với đối tượng tham gia là lãnh đạo địa phương, TYT và ban Giám hiệu trường học. Tổ chức TLN bà mẹ, tập huấn cho CBYT về chiến lược truyền thông, tập huấn CTV, phát động tổ chức hội thi dinh dhưỡng, thành lập câu lạc bộ phòng chống thiếu máu, CTV truyền thông tại hộ gia đình. Tổ chức thi vườn rau xanh, cung cấp con giống cây trồng cho hộ gia đình [25]. Mô hình truyền thông dinh dưỡng và hướng dẫn tạo nguồn thực phẩm tại Yên Bái tác động đến thực hành của bà mẹ và TTDD của trẻ dưới 24 tháng tuổi. Can thiệp bao gồm đào tạo CBYT, CTV về kỹ năng truyền thông, kiến thức về CSTN, NCBSM, NDTN. Truyền thông tại cộng đồng bằng giới thiệu bữa ăn mẫu, giáo dục cho bà mẹ có con SDD, tổ chức thực hành nấu cháo dinh dưỡng, CTV thăm hộ gia đình, cung cấp tài liệu truyền thông, hướng dẫn tạo nguồn thực phẩm tại hộ gia đình [4].

Tại Bắc Kạn mô hình truyền thông GDDD nhóm nhỏ cho các bà mẹ có con dưới 5 tuôi cũng đã được thử nghiệm. CTV dinh dưỡng thôn bản hàng tháng GDDD cho nhóm nhỏ các bà mẹ về hướng dẫn cho trẻ ABS, hướng dẫn tạo nguồn thực phẩm, chăm sóc trẻ bệnh, sử dụng biểu đồ theo dõi tăng trưởng. Bà mẹ có con SDD được cấp vốn nhỏ [52]. Can thiệp dinh dưỡng tổng hợp tại Thanh Hóa bao gồm thành lập Ban điều hành PCSDD, tổ chức thực hiện các hoạt động của chương trình PCSDD quốc gia, tổ chức thực hành mâm cơm dinh dưỡng cho PNMT, phát triển ô dinh dưỡng hộ gia đình, khuyến khích nuôi trồng tại hộ gia đình, cung cấp con giống, thiết lập chương trình phát triển quỹ vay vốn tín dụng tiết kiệm, tham quan học tập mô hình làm kinh tế giỏi [57]. Các mô hình GDDD cho các địa phương có tỷ lệ SDD cao và khu vực đồng bào dân tộc thiểu số cũng đã được thử nghiệm như mô hình PCSDD trẻ em dưới 5 tuổi dân tộc thiểu số dựa vào dựa vào các chức sắc uy tín tại huyện Bắc Trà My, Quảng Nam năm 2011. Các hoạt động can thiệp bao gồm tổ chức hội thảo với TTYT, lãnh đạo ban ngành, đoàn thể, xã và thôn, trưởng thôn, già làng, CTV dinh dưỡng. Thành lập ban chỉ đạo PCSDD và tổ tự quản, TLN bà mẹ nghèo nuôi con khỏe, CTV tuyên truyền trực tiếp bằng tiếng địa phương, thực


hành nấu bữa ăn mẫu, Sổ giun định kỳ cho trẻ, bổ sung sắt và acid folic, kẽm cho trẻ, tổ chức hội thi [9]. Mô hình huy động nguồn lực cộng đồng chăm sóc dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi dân tộc Sán Chay tại Thái Nguyên cũng là mô hình GDDD trong đó hoạt động chính là thực hành nấu bữa ăn mẫu do chính các bà mẹ dân tộc Sán Chay đóng góp thực phẩm và nấu cho trẻ ăn [64].

Tương tự các can thiệp phòng chống thiếu máu bà mẹ trẻ em cũng đã áp dụng cung cấp sản phẩm trực tiếp kết hợp với truyền thông. Nguyễn Thị Hiếu tiến hành can thiệp phòng chống thiếu máu thiếu sắt cho đối tượng phụ nữ trong độ tuổi 15-49 và PNMT. Hoạt động can thiệp bao gồm cung cấp viên sắt và nước mắm tăng cường sắt, đồng thời TTTT bởi CTV và TTGT bằng loa đài, tờ rơi [19]. Can thiệp tiếp thị xã hội vận động PNMT tự mua và sử dụng viên sắt đã được thử nghiệm với các hoạt động chính như xây dựng kế hoạch tiếp thị dựa trên các bước truyền thông thay đổi hành vi, xây dựng tài liệu tập huấn, tài liệu truyền thông, tập huấn, hội thảo, xây dựng mạng lưới tiếp thị cung cấp viên sắt. Các thành tố của chương trình tiếp thị bao gồm sản phẩm (viên sắt), giá cả (đựợc cộng đồng chấp nhận), địa điểm phân phối (thuận lợi dễ tiếp cận), hoạt động xúc tiến (truyền thông) [56].

Trong nghiên cứu can thiệp mô hình truyền thông đa dạng tại tuyến YTCS vai trò của CTV cũng tương tự. Họ đã được tập huấn về kỹ năng truyền thông và kiến thức về NDTN. Nhiệm vụ của họ là giới thiệu PTV Mặt Trời Bé Thơ, phát tờ rơi, tuyên truyền cho bà mẹ tại hộ gia đình và hỗ trợ CBYT tổ chức các buổi truyền thông và tư vấn nhóm. Mô hình truyền thông đa dạng đã tận dụng nguồn lực sẵn có tại địa phương như sự ủng hộ của hội phụ nữ và cán bộ chính quyền xã. Sự ủng hộ này đã tạo môi trường thuận lợi cho can thiệp. Ngoài ra CTV còn kiêm nhiệm các công tác của HPN hay tổ dân phố hoặc y tế thôn bản. Với nhiều chức trách như vậy đã tăng tính tiếp cận của CTV với bà mẹ và hoạt động tuyên truyền của họ cũng dễ dàng hơn.

Như vậy hầu hết các mô hình đã được triển khai trên cộng đồng đều là những mô hình sử dụng các biện pháp truyền thông kết hợp với cung cấp sản phẩm hoặc

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/11/2022