Những Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chất Lượng Sản Phẩm



CHƯƠNG 4: QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG

Ngày nay, chất lượng sản phẩm và dịch vụ đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.

Đảm bảo, cải tiến chất lượng và tăng cường, đổi mới quản lý chất lượng không chỉ được thực hiện ở các doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm vật chất mà ngày càng được thực hiện rộng rãi trong các lĩnh vực dịch vụ (quản lý hành chính công, y tế, giáo dục, đào tạo, tư vấn…).

Dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ, của nền kinh tế thị trường và của hội nhập kinh tế quốc tế, quản lý chất lượng có sự phát triển nhanh và không ngừng, nhiều khái niệm và thuật ngữ được hoàn thiện và thay đổi trên cơ sở có sự thay đổi về tư duy và cách tiếp cận.

4.1. SẢN PHẨM VÀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM

4.1.1. Sản phẩm

4.1.1.1. Một số khái niệm

Theo C.Mác: Sản phẩm là kết quả của quá trình lao động dùng để phục vụ cho việc làm thỏa mãn nhu cầu của con người. Trong nền kinh tế thị trường, người ta quan niệm sản phẩm là bất cứ cái gì đó có thể đáp ứng nhu cầu thị trường và đem lại lợi nhuận.

Theo TCVN 5814: sản phẩm là “kết quả của các hoạt động hoặc các quá trình” (Quản lý chất lượng và đảm bảo chất lượng- Thuật ngữ và định nghĩa- TCVN 6814-1994).

Có nhiều cách phân loại sản phẩm theo những quan điểm khác nhau. Một trong cách phân loại phổ biến là người ta chia sản phẩm thành 2 nhóm lớn:

- Nhóm sản phẩm thuần vật chất: là những vật phẩm mang đặc tính lý hóa nhất định.

- Nhóm sản phẩm phi vật phẩm: đó là các dịch vụ. Dịch vụ là “kết quả tạo ra do các hoạt động tiếp xúc giữa người cung ứng và khách hàng và các hoạt động nội bộ của người cung ứng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng”. (Quản lý chất lượng và đảm bảo chất lượng- Thuật ngữ và định nghĩa- TCVN 5814-1994). Hoạt động dịch vụ phát triển theo trình độ phát triển kinh tế và xã hội. Ở các nước phát triển thu nhập qua dịch vụ có thể đạt tới 60-70% tổng thu nhập xã hội.

Các hoạt động hoặc tạo ra sản phẩm với nhiều thuộc tính khác nhau thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng.

Sản phẩm không chỉ là vật chất thuần tuý, cái mà người tiêu dùng cần.

Sản phẩm hiện đại, phức tạp cũng bao gồm phần cứng là thực thể vật chất và phần mềm tạo nên công dụng thực của nó.

Sản phẩm cũng có thể được đưa vào lưu thông mặc dù ở dạng phi vật chất như thông tin.


Theo ISO 9000, sản phẩm được chia thành 3 loại:

+ Sản phẩm hữu hình: được hình thành qua quá trình cụ thể với một hình thức rò ràng. Loại sản phẩm này dược coi là sản phẩm phần cứng.

+ Sản phẩm trí tuệ: bao gồm những thông tin ở dạng các khái niệm, quy trình công nghệ, các bí quyết… Loại sản phẩm này được gọi là sản phẩm phần mềm.

+ Sản phẩm dưới hình thức dịch vụ: dịch vụ là kết quả của ít nhất một hoạt động cần được tiến hành tại nơi tương giao giữa người cung ứng với khách hàng và thường không hữu hình.

4.1.1.2. Tính chất cơ bản của sản phẩm

Sản phẩm được làm ra để sử dụng theo nhiều mục đích khác nhau tuỳ theo giá trị sử dụng của nó.

+ Tính chức năng, công dụng: có tính chất quyết định đến giá trị sử dụng của sản phẩm cho những mục đích khác nhau

+ Tính kỹ thuật, công nghệ: cho biết quy trình chế tạo như thế nào, việc bảo quản phải đáp ứng được yêu cầu ra sao.

+ Tính thẩm mỹ: không thể thiếu đối với sản phẩm, đặc biệt đối với xã hội phát triển, người dân có thu nhập cao.

+ Tính sinh thái: biểu đạt được các yêu cầu về môi trường khi sử dụng sản phẩm, đảm bảo vệ sinh, phù hợp với tâm lý người sử dụng.

+ Tính kinh tế: thể hiện ở chi phí sản xuất sản phẩm. Cùng loại sản phẩm có nhiều nhà sản xuất, cung ứng nên không thể chú ý đến những đặc tính cơ bản trên mà bỏ qua yếu tố giá thành sản phẩm.

4.1.2. Chất lượng sản phẩm:

Khi nêu câu hỏi “Bạn quan niệm thế nào là chất lượng sản phẩm?” người ta thường nhận được rất nhiều câu trả lời khác nhau tùy theo đối tượng được hỏi là ai. Các câu trả lời thường gặp như:

- Đó là những gì họ được thỏa mãn tương đương với số tiền họ chi trả.

- Đó là những gì họ muốn được thỏa mãn nhiều hơn so với số tiền họ chi trả.

- Sản phẩm phải đạt hoặc vượt trình độ của khu vực, hay tương đương hoặc vượt trình độ thế giới.

Đối với câu hỏi thế nào là một công việc có chất lượng, ta cũng nhận được những câu trả lời khác nhau như thế.

Một trong những quy luật phổ biến của nền kinh tế thị trường là “cạnh tranh”. Có nhiều loại vũ khí cạnh tranh: chất lượng, giá cả, thời hạn giao hàng, các dịch vụ bán hàng và sau bán hàng, các hoạt động xúc tiến bán hàng... tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp vận dụng các loại vũ khí trên ở


mức độ khác nhau. Nhưng xu hướng phát triển tất yếu là yếu tố chất lượng ngày càng trở thành vũ khí hàng đầu là điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Trước hết là vì doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì sản phẩm của họ phải được thị trường chấp nhận. Muốn vậy sản phẩm phải đáp ứng được kỳ vọng của khách hàng với xu hướng ngày càng quan tâm đến chất lượng.

4.1.2.1. Quan niệm về chất lượng.

- Chất lượng sản phẩm là một phạm trù phức tạp, một khái niệm mang tính chất tổng hợp về các mặt kinh tế - kỹ thuật, xã hội.

- Chất lượng sản phẩm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, triển khai và chuẩn bị sản xuất, được đảm bảo trong quá trình tiến hành sản xuất và được duy trì trong quá trình sử dụng.

Thông thường người ta cho rằng sản phẩm có chất lượng là những sản phẩm hay dịch vụ hảo hạng, đạt được trình độ của khu vực hay thế giới và đáp ứng được mong đợi của khách hàng với chí phí có thể chấp nhận được. Nếu quá trình sản xuất có chi phí không phù hợp với giá bán thì khách hàng sẽ không chấp nhận giá trị của nó, có nghĩa là giá bán cao hơn giá mà khách hàng chịu bỏ ra để đổi lấy các đặc tính của sản phẩm.

Như vậy ta thấy cách nhìn về chất lượng giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng khác nhau nhưng không mâu thuẫn nhau.

Xuất phát từ những quan điểm khác nhau, hiện có hàng trăm định nghĩa khác nhau về chất lượng sản phẩm.

Dưới đây là một số định nghĩa về chất lượng thường gặp :

(1) “Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng” (European Organization for Quality Control)

(2) “Chất lượng là sự phù hợp với yêu cầu” (Philip B. Crosby)

(3) “Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thỏa mãn những nhu cầu đã nêu ra và nhu cầu tiềm ẩn” (ISO 8402) (thực thể trong định nghĩa trên được hiểu là sản phẩm theo nghĩa rộng). Như vậy, “khả năng thỏa mãn nhu cầu” là chỉ tiêu cơ bản nhất để đánh giá chất lượng sản phẩm.

Trên thực tế, nhu cầu có thể thay đổi theo thời gian, vì thế, cần xem xét định kỳ các yêu cầu chất lượng để có thể bảo đảm lúc nào sản phẩm của doanh nghiệp làm ra cũng thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng.

Các nhu cầu thường được chuyển thành các đặc tính với các tiêu chuẩn nhất định. Nhu cầu có thể bao gồm tính năng sử dụng, tính dễ sử dụng, tính sẵn sàng, độ tin cậy, tính thuận tiện và dễ dàng trong sửa chữa, tính an toàn, thẩm mỹ, các tác động đến môi trường.


Thông thường, người ta rất dễ chấp nhận ý tưởng cho rằng cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm là phải tập trung cải tiến và nâng cao đặc tính kỹ thuật, sự hoàn thiện của sản phẩm. Quan niệm này sẽ dẫn đến xu hướng đồng hóa việc đầu tư vào đổi mới dây chuyền sản xuất, công nghệ sản xuất là nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong nhiều trường hợp, quan niệm này tỏ ra đúng đắn, nhất là khi sản phẩm đang được sản xuất ra với công nghệ quá lạc hậu. Tuy nhiên, chất lượng đã vượt ra khỏi phạm vi của sản phẩm. Doanh nghiệp sản xuất ra các sản phẩm có chất lượng và nhờ những sản phẩm tốt mà được khách hàng tín nhiệm. Song muốn thật sự được người tiêu dùng tín nhiệm thì cùng với sản phẩm tốt, doanh nghiệp còn phải thực hiện một loạt dịch vụ cần thiết khác như: bảo hành, hướng dẫn sử dụng, bảo dưỡng kỹ thuật định kỳ và các dịch vụ phụ trợ khác.

Điều đó có nghĩa là doanh nghiệp không chỉ bán sản phẩm tốt mà còn phải giúp khách hàng giải quyết các vấn đề nảy sinh trong khi sử dụng. Ví dụ khi những sản phẩm đầu tiên của Nhật Bản bán ra thị trường nước ngoài, khách hàng không thể đọc được các bản hướng dẫn sử dụng vì nó viết bằng tiếng Nhật, nhưng sau đó họ đã rút kinh nghiệm và hàng hóa của Nhật ngày càng được chấp nhận nhiều hơn ở nước ngoài. Các doanh nghiệp sản xuất hoặc mua sản phẩm để bán lại trên thị trường cho người tiêu dùng nhằm thu được lợi nhuận, vì thế, quan niệm của người tiêu dùng về chất lượng phải được nắm bắt đầy đủ và kịp thời. Dưới quan điểm của người tiêu

dùng, chất lượng sản phẩm phải thể hiện các khía cạnh sau :

(1) Chất lượng sản phẩm là tập hợp các chỉ tiêu, các đặc trưng thể hiện tính năng kỹ thuật hay tính hữu dụng của nó.

(2) Chất lượng sản phẩm được thể hiện cùng với chi phí. Người tiêu dùng không chấp nhận mua một sản phẩm với bất kỳ giá nào.

(3) Chất lượng sản phẩm phải được gắn liền với điều kiện tiêu dùng cụ thể của từng người, từng địa phương. Phong tục, tập quán của một cộng đồng có thể phủ định hoàn toàn những thứ mà thông thường người ta xem là có chất lượng.

Trong thực tế sản xuất kinh doanh, nếu không chú ý đầy đủ đến các yếu tố trên sẽ dẫn đến thiệt hại không nhỏ.

Tổng hợp tất cả các quan niệm khác nhau về chất lượng sản phẩm nêu trên, có thể đưa ra một định nghĩa chung về chất lượng sản phẩm.

Chất lượng sản phẩm là tổng hợp các tính chất, các đặc trưng của sản phẩm được cải tiến liên tục, tạo nên giá trị sử dụng phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí thấp nhất trong những điều kiện sản xuất, kinh tế xã hội nhất định.”

4.1.2.2. Những đặc trưng về chất lượng sản phẩm

- Tính kinh tế: Thể hiện ở khía cạnh chất lượng sản phẩm chịu sự chi phối trực tiếp của điều kiện kinh tế. Một sản phẩm có chất lượng kỹ thuật nhưng nếu được cung


cấp với giá cao quá vượt khả năng thanh toán của người tiêu dùng thì sẽ không phải là một sản phẩm có chất lượng cao về mặt kinh tế. Tính kinh tế còn được thể hiện ở sự hợp lý theo quan điểm “tiền nào của ấy” và ở tính hiệu quả.

- Tính kỹ thuật: được thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu có thể lượng hoá và so sánh được. Những chỉ tiêu kỹ thuật quan trọng nhất gồm có: chỉ tiêu công dụng, độ tin cậy, thẩm mỹ, công nghệ, tính dễ vận chuyển, chỉ tiêu thống nhất hoá, an toàn. Các chỉ tiêu này được sử dụng tổng hợp để đánh giá một cách toàn diện tính chất kỹ thuật của sản phẩm. Tuỳ thuộc vào loại sản phẩm cụ thể mà mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu sẽ khác nhau.

- Tính xã hội: thể hiện khả năng thoả mãn nhu cầu tiêu dùng phù hợp với đặc điểm điều kiện và trình độ phát triển của một xã hội nhất định.

- Tính tương đối của chất lượng sản phẩm: thể hiện ở sự phụ thuộc của nó vào không gian, thời gian, vào đặc điểm cụ thể của đối tượng sử dụng và ở mức độ chính xác tương đối khi đo lường sản phẩm. Vậy là không có khái niệm chất lượng hoàn hảo tuyệt đối.

Như vậy, chất lượng kinh tế của một sản phẩm chính là sự phù hợp của cơ cấu mặt hàng và tính đa dạng của mặt hàng sản phẩm với mọi nhu cầu của thị trường với chi phí xã hội thấp nhất.


Thuộc tính mục đích

Cơ bản

Bổ sung

Cụ thể hóa

Ô tô vận tải

Khả năng vận chuyển

Hình dáng, thước, tải trọng

kích

Vạn dùng

năng,

chuyên

Quần áo

Thỏa mãn nhu cầu về mặc

Màu sắc, kiểu , trang trí

Theo lứa tuổi, theo nghề nghiệp

Sữa

Thuộc tính dinh dưỡng, vệ sinh

Phụ gia, khử hoặc không khử béo

Theo lứa tuổi, theo bệnh tật

Du lịch

Thỏa mãn nhu cầu và sự thích thú du lịch

Loại hình sản phẩm: du lịch văn hóa, thể thao, kinh doanh

Du lịch đường thủy, đường bộ, đường sắt, đường hàng không.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Kinh tế công nghiệp và quản trị chất lượng - ĐH SPKT Nam Định - 17

Bảng 4.1: Các loại thuộc tính của sản phẩm

Trên bình diện tổng thể của nền kinh tế, các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ gồm có :

(1) - Hoàn thiện danh mục sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong hiện tại và cả trong tương lai nữa.

(2) - Tối ưu hóa cơ cấu mặt hàng trong phạm vi doanh nghiệp, vùng lãnh thổ, quốc gia.


(3) - Tối ưu hóa mặt hàng sản phẩm cho phép đạt tới tính đa dạng hợp lý, tiết kiệm nhất.

(4) - Hoàn thiện các thông số kỹ thuật và cải tiến các dịch vụ bán, dịch vụ liên quan đến sử dụng sản phẩm. Biết chọn đúng thời điểm để tung ra thị trường các sản phẩm mới mà người tiêu dùng ưa chuộng để thay thế các sản phẩm đã lỗi thời.

4.1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm

- Các yếu tố tầm vi mô (quy tắc 4M)

+ Con người (Men) – M1 : gồm cán bộ lãnh đạo các cấp, cán bộ công nhân viên trong một đơn vị và người tiêu dùng, có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm.

+ Yếu tố nguyên nhiên vật liệu (Materials) – M2: là yếu tố cơ bản đầu vào, ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm.

+ Yếu tố kỹ thuật – công nghệ – thiết bị (Machines) – M3: Đây là yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt, có tác dụng quyết định việc hình thành chất lượng sản phẩm.

+ Yếu tố phương pháp tổ chức quản lý (Methods) – M4: có nguyên liệu tốt, có công nghệ thiết bị hiện đại, nhưng không biết tổ chức quản lý lao động tổ chức sản xuất, thực hiện tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm...thì không thể nâng cao được chất lượng sản phẩm.

- Các yếu tố tầm vĩ mô: gồm có các vấn đề về nhu cầu thị trường, tiềm năng kinh tế, trình độ phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ, các chính sách kinh tế, hiệu lực của các cơ quan hành chính đối với việc thực thi pháp luật và những yếu tố về văn hoá, truyền thống, tập quán...

4.2. KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM

4.2.1. Khái niệm, đặc điểm, chức năng

4.2.1.1. Một số khái niệm liên quan đến quản lý chất lượng

Các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý chất lượng đều cho rằng chất lượng không tự nhiên sinh ra, nó là kết quả của sự tác động của hàng loạt yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt được chất lượng mong muốn cần phải quản lý một cách đúng đắn các yếu tố này. Quản lý chất lượng là một khía cạnh của chức năng quản lý để xác định và thực hiện chính sách chất lượng. Hoạt động quản lý trong lĩnh vực chất lượng được gọi là quản lý chất lượng.

Trong giai đoạn sản xuất chưa phát triển, lượng sản phẩm sản xuất chưa nhiều, thường trong phạm vi một gia đình. Người mua và người bán thường biết rò nhau nên việc người bán làm ra sản phẩm có chất lượng để bán cho khách hàng gần như là việc


đương nhiên vì nếu không họ sẽ không bán được hàng. Điều này cũng có nghĩa là nhu cầu của khách hàng luôn được thỏa mãn một cách tốt nhất.

Công nghiệp phát triển, các vấn đề kỹ thuật và tổ chức ngày càng phức tạp đòi hỏi sự ra đời một số người chuyên trách về hoạch định và quản lý chất lượng sản phẩm.

Sự xuất hiện các công ty lớn làm nảy sinh các loại nhân viên mới như:

- Các chuyên viên kỹ thuật giải quyết các trục trặc về kỹ thuật

- Các chuyên viên chất lượng phụ trách việc tìm ra các nguyên nhân hạ thấp chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn hóa, dự báo phế phẩm và phân tích nguyên nhân hàng hóa bị trả lại. Họ sử dụng thống kê trong kiểm tra chất lượng sản phẩm.

Việc kiểm tra chất lượng sản phẩm trong giai đoạn này thường được thực hiện chủ yếu trong khâu sản xuất và tập trung vào thành phẩm nhằm loại bỏ những sản phẩm không đạt yêu cầu về chất lượng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy không thể nào kiểm tra được hết một cách chính xác các sản phẩm. Rất nhiều trường hợp người ta loại bỏ nhầm các sản phẩm đạt yêu cầu chất lượng, mặt khác, cũng rất nhiều trường hợp, người ta không phát hiện ra các sản phẩm kém chất lượng và đưa nó ra tiêu thụ ngoài thị trường.

Thực tế này khiến cho các nhà quản lý chất lượng phải mở rộng việc kiểm tra chất lượng ra toàn bộ quá trình sản xuất - kiểm soát chất lượng. Phương châm chiến lược ở đây là phải tìm ra các nguyên nhân, các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng, giải quyết tốt các điều kiện cho sản xuất từ gốc mới có kết quả cuối cùng là chất lượng sản phẩm. Người ta phải kiểm soát được các yếu tố :

- Con người (Men)

- Phương pháp sản xuất, qui trình kỹ thuật (Methods)

- Nguyên vật liệu (Materials)

- Thiết bị sản xuất (Machines)

- Phương pháp và thiết bị đo lường (Mesurement)

- Môi trường (Environment)

- Thông tin (Information)

Người ta gọi là phải kiểm soát 5M, E, I. Ngoài ra, người ta còn chú ý tới việc tổ chức sản xuất ở công ty, xí nghiệp để đảm bảo năng suất và tổ chức kiểm tra theo dòi thường xuyên.

Trong giai đoạn này, người ta đã đạt được nhiều kết quả trong việc đưa vào áp dụng các biện pháp, các công cụ quản lý, như:

- Áp dụng các công cụ toán học vào việc theo dòi sản xuất.

- Kiểm tra thiết bị, kiểm định dụng cụ đo.

- Theo dòi năng suất lao động của công nhân, của máy móc.


Tuy nhiên, trong kinh doanh, muốn tạo nên uy tín lâu dài phải - bảo đảm chất lượng, đây là chiến lược nhằm tạo niềm tin nơi khách hàng. Bảo đảm chất lượng phải thể hiện được những hệ thống quản lý chất lượng đó và chứng tỏ bằng các chứng cứ cụ thể về chất lượng đã đạt được của sản phẩm. Ở đây cần một sự tín nhiệm của người mua đối với hãng sản xuất ra sản phẩm. Sự tín nhiệm này có khi người mua đặt vào nhà cung cấp vì họ chưa biết người sản xuất là ai. Nhà cung cấp làm ăn ổn định, buôn bán ngay thẳng, và phục vụ tốt cũng dễ tạo tín nhiệm cho khách hàng đối với một sản phẩm mới. Sự tín nhiệm này không chỉ thông qua lời giới thiệu của người bán, quảng cáo, mà cần phải được chứng minh bằng các hệ thống kiểm tra trong sản xuất, các hệ thống quản lý chất lượng trong nhà máy.

Bảo đảm chất lượng vừa là một cách thể hiện cho khách hàng thấy được về công tác kiểm tra chất lượng, đồng thời nó cũng là chứng cứ cho mức chất lượng đạt được.

Trong thực tế, từ công nhân đến giám đốc xí nghiệp, ai cũng muốn kiểm tra chất lượng, vì có kiểm tra mới đảm bảo được chất lượng. Nhưng không phải mọi người trong sản xuất kinh doanh đều muốn nâng cao chất lượng, vì việc này cần có chi phí, nghĩa là phải tốn kém. Trong giai đoạn tiếp theo - mà ta thường gọi là quản lý chất lượng - người ta quan tâm nhiều hơn đến mặt kinh tế của chất lượng nhằm tối ưu hóa chi phí chất lượng để đạt được các mục tiêu tài chính cho doanh nghiệp. Quản lý chất lượng mà không mang lại lợi ích kinh tế thì không phải là quản lý chất lượng, mà là sự thất bại trong sản xuất kinh doanh.

Để có thể làm được điều này, một tổ chức, một doanh nghiệp phải huy động mọi nguồn lực của nó, nghĩa là phải quản lý chất lượng toàn diện. Trong bước phát triển này của chiến lược quản lý chất lượng, người ta không chỉ loại bỏ những sản phẩm không phù hợp mà còn phải tìm cách giảm tới mức thấp nhất các khuyết tật và phòng ngừa không để xảy ra các khuyết tật. Kiểm tra chất lượng trong quản lý chất lượng toàn diện còn để chứng minh với khách hàng về hệ thống quản lý của doanh nghiệp để làm tăng uy tín về chất lượng của sản phẩm. Kiểm tra chất lượng trong quản lý chất lượng toàn diện còn mở rộng ra ở nhà cung ứng nguyên vật liệu nhập vào và ở nhà phân phối đối với sản phẩm bán ra.

Hiện nay đang tồn tại các quan điểm khác nhau về quản lý chất lượng:

- Theo tiêu chuẩn quốc gia Liên Xô cũ (GOST 15467 - 70): “Quản lý chất lượng là xây dựng, đảm bảo và duy trì mức chất lượng tất yếu của sản phẩm khi thiết kế, chế tạo, lưu thông và tiêu dùng”.

- Theo Vũ Quốc Bình: “Quản lý chất lượng là tổng thể các biện pháp kinh tế, kỹ thuật, hành chính tác động lên toàn bộ quá trình hoạt động của một tổ chức hay một doanh nghiệp để đạt hiệu quả cao nhất về chất lượng với chi phí thấp nhất”.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 29/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí