Theo quy định của pháp luật Thái Lan kể từ thời điểm kết hôn vợ chồng sẽ phát sinh quan hệ tài sản chung với những tài sản có nguồn gốc sau:
- Tài sản vợ chồng làm ra trong thời kỳ hôn nhân.
- Tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân thông qua một di chúc hoặc tặng cho được làm bằng văn bản nếu trong các văn bản này tuyên bố rõ tài sản đó là tài sản chung.
- Hoa lợi phát sinh từ tài sản riêng.
Ngoài ra trong trường hợp tài sản có nguồn gốc hợp pháp khác nhưng không chứng minh được nó là của riêng một bên vợ, chồng thì tài sản đó được coi là tài sản chung.
Theo Điều 1492, Bộ luật Dân sự và Thương mại Thái Lan quy định khi vợ chồng ly hôn, xác định phần tài sản chung để chia thì phần tài sản chia cho mỗi bên vợ chồng trở thành tài sản riêng của họ. Bất cứ tài sản nào mà vợ chồng có được sau khi chia sẽ là tài sản riêng của người đó và không được coi là tài sản chung. Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung, tặng cho chung trở thành tài sản riêng chia đều cho mỗi bên. Hoa lợi thu được từ tài sản riêng của người nào thuộc sở hữu của người đó.
1.4.2. Luật của Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia mang nặng nhiều biểu hiện phong kiến. Bộ luật Dân sự ở Nhật Bản được coi là một trong những sản phẩm của cuộc cải cách Minh Trị năm 1868. Hôn ước hay phần lớn những quy định trong Bộ luật Dân sự Nhật Bản thường do được học tập từ dân luật Đức hoặc Pháp.
Điều 756 BLDS Nhật Bản quy định: “Nếu vợ hoặc chồng trước khi đăng ký kết hôn không ký một hợp đồng nào nhằm quy định khác đi tài sản của mình, thì quan hệ tài sản của họ được điều chỉnh bởi các quy định của tiểu mục II (tiểu mục qui định chế độ tài sản pháp định).
Theo quy định tại Điều 762 BLDS Nhật Bản: “Tài sản thuộc về vợ hoặc chồng từ thời điểm trước đám cưới và tài sản có được trong thời gian tồn tại của hôn nhân nhân danh người đó tạo thành là tài sản riêng của người đó. Bất kỳ tài sản nào mà không thể xác định được là của vợ hoặc chồng, thì được coi là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng”.
Có thể bạn quan tâm!
- Xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình 2014 - 2
- Khái Niệm Xác Định Tài Sản Vợ Chồng Khi Ly Hôn
- Pháp Luật Ở Miền Nam Trước Ngày Thống Nhất Đất Nước Về Xác Định Tài Sản Vợ Chồng Khi Ly Hôn (1954 - 1975)
- Xác Định Tài Sản Vợ Chồng Khi Ly Hôn Trong Trường Hợp Vợ Chồng Áp Dụng Chế Độ Tài Sản Theo Luật Định
- Xác Định Nghĩa Vụ Chung Của Vợ Chồng
- Thực Tiễn Xác Định Tài Sản Vợ Chồng Khi Ly Hôn
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Khi ly hôn, vợ hoặc chồng có quyền được yêu cầu phân chia tài sản. Nếu các bên không thỏa thuận được việc phân chia tài sản phù hợp với các quy định của pháp luật thì có quyền yêu cầu Toà án HN&GĐ thực hiện các biện pháp nhằm đạt được sự thỏa thuận. Lúc này, Tòa án HN&GĐ sẽ quyết định số lượng cũng như cách thức phân chia với sự cân nhắc số tài sản mà các bên đã cùng tạo dựng được (Điều 768). Đối với các vấn đề chi tiêu hàng ngày nếu chồng hoặc vợ thực hiện các giao kết pháp lý với người thứ ba, thì cả vợ và chồng đều phải chịu trách nhiệm liên đới đối với các nghĩa vụ phát sinh đó, trừ trường hợp có thông báo trước về việc chồng hoặc vợ sẽ không phải chịu trách nhiệm trước người thứ ba (Điều 761).
1.4.3. Luật của Đức
Ở Đức, pháp luật quy định về tài sản trong hôn nhân do luật định và hợp đồng hôn nhân (hôn khế). Nguyên tắc tự do quy định qua hợp đồng cũng được áp dụng cho tài sản hôn nhân nên vợ chồng có thể tự thoả thuận các quan hệ về tài sản của họ trong hợp đồng hôn nhân hay thoả thuận áp dụng những quy định luật định nào.
Nếu không có hợp đồng hôn nhân thì quan hệ tài sản trong hôn nhân sẽ tuân theo các quy định của chế độ tài sản cộng đồng gia tăng (Điều 1361 BLDS). Ở chế độ này, tài sản của vợ hay chồng, kể cả tài sản có được sau khi kết hôn, vẫn là tài sản riêng của người ấy, mỗi người tự quản lý và chịu trách nhiệm về tài sản của mình, và chỉ cần ý kiến đồng thuận của người kia khi muốn chuyển nhượng toàn bộ tài sản của mình hay một đồ vật thuộc về đồ
đạc trong nhà. Tài sản gia tăng của vợ chồng chỉ được chia khi chế độ tài sản của họ chấm dứt. Khi chế độ tài sản vợ chồng bị chấm dứt vì người vợ hay chồng chết thì sự chia tài sản gia tăng được thực hiện qua việc phần thừa kế của người sống được tăng thêm 1/4. Nếu chế độ cộng đồng gia tăng bị chấm dứt qua ly hôn thì người nào có phần tài sản gia tăng cao hơn, sẽ phải chia đôi phần gia tăng nhiều hơn cho người kia, để cho phần gia tăng tài sản của hai vợ chồng trong thời gian hôn nhân bằng nhau. Tài sản gia tăng là sự chênh lệch về giá trị (tức là phần gia tăng) của tài sản tính từ ngày kết hôn đến ngày đơn xin ly hôn đến Toà án gia đình. Những tài sản mà người vợ hay người chồng nhận được từ cha mẹ hay họ hàng của mỗi người như của hồi môn, thừa kế, quà tặng riêng… trong thời gian hôn nhân không bị coi là phần gia tăng của tài sản khi ly hôn.
Nếu thông qua hợp đồng hôn nhân, vợ chồng có thể thỏa thuận không theo chế độ tài sản cộng đồng gia tăng mà chọn chế độ tài sản sở hữu tài sản tách riêng hoặc chế độ tài sản sở hữu tài sản chung.
Ở chế độ tài sản sở hữu tài sản tách riêng (Điều 1414 BLDS) tài sản của vợ chồng, kể cả tài sản mà vợ chồng có được sau khi kết hôn qua lao động, là tài sản riêng của người ấy. Mỗi người tự quản lý và chịu trách nhiệm về tài sản của mình, có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt độc lập không cần ý kiến của người kia.
Ở chế độ tài sản sở hữu tài sản chung, tất cả tài sản của hai vợ chồng có từ trước ngày kết hôn và tài sản vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân qua lao động, thừa kế... trở thành tài sản chung của hai vợ chồng mà không cần một nghi thức pháp lý nào. Cả hai vợ chồng có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt như nhau đối với tài sản chung. Chế độ tài sản sở hữu chung chấm dứt qua ly hôn, lúc này tài sản sẽ được chia đôi giữa vợ và chồng sau khi thanh toán hết những nghĩa vụ chi trả [4].
Chương 2: XÁC ĐỊNH TÀI SẢN VỢ CHỒNG KHI LY HÔN THEO PHÁP LUẬT VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
Điểm mới rất quan trọng của Luật HN&GĐ năm 2014 là bổ sung chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận, theo đó, vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận [44, Điều 28]. Do đó, việc xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn cần dựa vào sự lựa chọn của vợ chồng trong việc áp dụng chế độ tài sản.
2.1. Xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận
Chế độ tài sản theo thỏa thuận là việc vợ chồng thỏa thuận với nhau về việc xác lập và thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với tài sản của họ. Thỏa thuận này được thể hiện dưới dạng văn bản (dưới nhiều tên gọi: hôn ước, hợp đồng tiền hôn nhân hay thỏa thuận trước hôn nhân…). Vợ chồng có thể lựa chọn một trong các chế độ tài sản do pháp luật quy định hoặc tự thiết lập một chế độ riêng với điều kiện không trái với pháp luật.
Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014 thì trong trường hợp vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận và thỏa thuận này phù hợp với quy định của Luật HN&GĐ thì việc xác định tài sản của vợ chồng khi ly hôn được giải quyết theo thỏa thuận của vợ chồng.
2.1.1. Xác định tài sản vợ chồng dựa vào văn bản thoả thuận về tài sản của vợ chồng
Để xây dựng một gia đình hạnh phúc, bền vững thì việc phát triển kinh tế, tạo lập tài sản của vợ chồng được các bên chú trọng. Khi cuộc sống hoà thuận hạnh phúc, việc xác định rạch ròi tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của mỗi bên ít được quan tâm, coi trọng. Vợ chồng thường có xu hướng
sử dụng các tài sản có được vào mục đích chung của gia đình, giới hạn giữa tài sản chung và riêng không có sự phân biệt rõ ràng. Các bên thường có xu hướng nhập phần tài sản riêng của mình vào khối tài sản chung của vợ chồng nhằm đảm bảo đời sống của gia đình, giữa vợ chồng thường không phân biệt “ranh giới” giữa tài sản chung và tài sản riêng; không phân biệt “của anh, của tôi”. Pháp luật ghi nhận việc thoả thuận của các bên trên nguyên tắc quyền tự định đoạt, giữa vợ và chồng có thể thoả thuận tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng và tài sản nào là tài sản riêng của vợ, chồng.
Điều 47 của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về thỏa thuận xác lập chế độ tài sản vợ chồng như sau:
Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Khoản 1, Điều 48 của Luật HN&GĐ năm 2014 quy định về nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng như sau:
1. Nội dung cơ bản của thỏa thuận về chế độ tài sản bao gồm:
a) Tài sản được xác định là tài sản chung, tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Quyền, nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng và giao dịch có liên quan; tài sản để đảm bảo nhu cầu thiết yếu của gia đình;
c) Điều kiện, thủ tục và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản;
d) Nội dung khác có liên quan.
Đồng thời, tại khoản 1 Điều 15 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 của Chính phủ Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình quy định về xác định tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận như sau:
1. Trường hợp lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung sau đây:
a) Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;
b) Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung;
c) Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó;
d) Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
Ví dụ: Trước khi kết hôn mỗi bên vợ chồng với tư cách là cá nhân tham gia các hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, họ học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh... để tạo lập cuộc sống và chuẩn bị hành trang bước vào cuộc sống hôn nhân. Tài sản của mỗi bên có trước khi kết hôn có thể là những thu nhập từ lao động, từ hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp, có thể do người khác chuyển dịch quyển sở hữu thông qua các giao dịch hợp pháp. Theo quy định những tài sản đó phải thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Đồng thời, trong thời kỳ hôn nhân, với quan niệm “của chồng công vợ” và xuất phát từ nhu cầu chung, lợi ích chung của gia đình là tối cao, tài sản của vợ chồng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ là vì mục đích đó, nên
tất cả tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân được vợ chồng thỏa thuận đều là tài sản chung. Khi vợ chồng ly hôn, khối tài sản chung đó sẽ được chia đôi cho mỗi bên vợ, chồng.
2.1.2. Xác định tài sản của vợ chồng khi thoả thuận về chế độ tài sản không đầy đủ, rõ ràng
Khoản 2 Điều 48 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Khi thực hiện chế độ tài sản theo thỏa thuận mà phát sinh những vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì áp dụng quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này và quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định.”.
Thứ nhất, về nguyên tắc chung của chế độ tài sản vợ chồng, Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.
2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.
3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường.
Với tư cách là đồng chủ sở hữu, vợ chồng bình đẳng với nhau khi thực hiện quyền sở hữu với tài sản chung. Vấn đề bình đẳng trong quyền sở hữu đối với tài sản chung được thể hiện cụ thể ở ba quyền năng: Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 219 BLDS năm 2005. Trong gia đình, vợ và chồng đều có quyền nắm giữ, quản lý tài sản
thuộc sở hữu chung, đều có quyền khai thác công dụng, hưởng lợi ích từ tài sản cũng như quyền định đoạt số phận của tài sản đó.
Vợ, chồng phải có sự bàn bạc, thỏa thuận sử dụng tài sản chung nhằm đảm bảo đời sống chung gia đình, sao cho việc sử dụng, định đoạt tài sản chung đem lại lợi ích nhiều nhất cho cuộc sống chung vợ chồng, đảm bảo nghĩa vụ nuôi dưỡng, giáo dục các con, cũng như quyền lợi của các thành viên khác trong gia đình như: Mua bán lương thực, thực phẩm, vật dụng tiêu dùng thiết yếu, tham gia các dịch vụ thể thao, du lịch, giải trí văn hóa, văn nghệ...
Đối với những giao dịch thông thường, liên quan đến những tài sản không lớn nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình, thì hành vi xử sự của vợ, chồng khi định đoạt tài sản chung đó luôn được coi là có sự thỏa thuận đương nhiên của vợ và chồng dù chỉ có một trong hai bên định đoạt.
Ví dụ: Vợ, chồng dùng tiền bạc, tài sản chung đảm bảo nhu cầu về ăn, ở, học hành, chữa bệnh...thì giao dịch này luôn được coi là đã có sự thỏa thuận đương nhiên của vợ, chồng.
Trong những trường hợp vì lý do chính đáng và hoàn cảnh riêng của từng gia đình mà có thể vợ hoặc chồng không trực tiếp tạo ra tài sản mà chỉ lao động trong gia đình như làm nội trợ, chăm sóc con... thì quyền sở hữu của họ đối với tài sản chung vẫn ngang bằng với người kia. Lao động trong gia đình của vợ hoặc chồng cũng được coi là lao động có thu nhập.
Thứ hai, giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng thì việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của hai vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập,