Thực Tiễn Xác Định Tài Sản Vợ Chồng Khi Ly Hôn

2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của luật này”.

Như vậy, tài sản riêng của vợ, chồng được xác định dựa vào các căn cứ sau:

- Tài sản riêng của vợ, chồng bao gồm tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có từ trước khi kết hôn:

Thông qua lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và các thu nhập hợp pháp khác, mỗi người có thể tạo ra một khối tài sản hoặc có được tài sản thông qua các giao dịch dân sự trước khi kết hôn. Những tài sản này thuộc quyền sở hữu riêng của mỗi bên và được pháp luật thừa nhận, bảo hộ. Những tài sản này không phải do vợ, chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân, không chịu sự tác động bởi tính chất cộng đồng của quan hệ hôn nhân và lợi ích chung của gia đình. Vì vậy, vợ chồng có thể xác lập quyền sở hữu của mình đối với những tài sản phát sinh trước khi kết hôn dựa trên các căn cứ được quy định từ Điều 233 đến Điều 247 BLDS 2005 về xác lập quyền sở hữu đối với thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp…

Quy định tài sản mà mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn là tài sản riêng của vợ chồng đã bảo vệ được quyền sở hữu cá nhân của vợ, chồng, là căn cứ pháp lý bảo đảm tài sản riêng của vợ chồng khi giải quyết tranh chấp trên thực tế; đồng thời phù hợp với quy định quyền sở hữu riêng của công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo vệ.

- Tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân:

Những tài sản này không do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân mà được định đoạt bởi ý chí của chủ sở hữu. Việc pháp luật quy định những tài sản này thuộc khối tài sản riêng của vợ, chồng nhằm bảo đảm quyền tự định

đoạt của các chủ sở hữu tài sản theo quy định của pháp luật về việc chuyển dịch tài sản của mình cho mỗi bên vợ, chồng được hưởng. Những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân thường do những người thân thuộc, bạn bè của mỗi bên cho vợ, chồng được hưởng giá trị tài sản đó. Đó có thể là những tài sản do cha, mẹ cho riêng con trong ngày cưới, cha mẹ một bên khi chết để lại di chúc cho con mình là người vợ, chồng được hưởng … Những tài sản mà vợ, chồng được thừa kế riêng, tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng của vợ, chồng.

- Tài sản mà vợ, chồng được chia khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân:

Xuất phát từ thực tế cuộc sống, Luật HN&GĐ năm 2014 trên cơ sở kế thừa Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân và hậu quả pháp lý sau khi chia tài sản chung. Theo đó, khoản 1 Điều 40 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng”. Như vậy, phần tài sản chung đã được chia riêng cho mỗi bên vợ, chồng là tài sản riêng của người đó. Những hoa lợi, lợi tức phát sinh từ phần tài sản riêng được chia là tài sản riêng của vợ, chồng. “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác” [5].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

Như vậy, pháp luật đã quy định rõ tài sản riêng của vợ, chồng còn có những tài sản mà vợ, chồng có được khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Ngoài ra, theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và gia đình, tài sản riêng khác của vợ, chồng theo quy định của pháp luật bao gồm:

Xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn theo luật Hôn nhân và gia đình 2014 - 8

- Quyền tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.

- Tài sản mà vợ, chồng xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác.

- Khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng, quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng.

2.2.2.2. Xác định nghĩa vụ riêng của vợ, chồng

Nghĩa vụ được thực hiện bằng tài sản riêng của vợ, chồng được quy định như sau:

Khoản 3 Điều 44 Luật HN&GĐ năm 2014: “Nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi người được thanh toán từ tài sản riêng của người đó”. Nghĩa vụ về tài sản của vợ, chồng phát sinh từ các khoản nợ mà vợ, chồng vay của người khác, sử dụng vào mục đích cá nhân mà không vì mục đích của gia đình hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng hay các loại nghĩa vụ khác theo luật định (nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, vợ, chồng, con mà vợ, chồng phải thực hiện). Luật HN&GĐ năm 2000 chỉ quy định nghĩa vụ riêng về tài sản của mỗi bên vợ, chồng được thanh toán từ tài sản riêng của người có nghĩa vụ. Quy định này còn quá chung chung, chưa có căn cứ cụ thể để xác định loại nghĩa vụ tài sản này. Ngoài quy định trên, Luật HN&GĐ năm 2014 đã bổ sung quy định cụ thể nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng. Theo đó, vợ, chồng phải bằng tài sản riêng của mình để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ sau đây:

Một là, nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;

Hai là, nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng (trường hợp hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng là nguồn sống duy nhất của gia đình và trường hợp sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình);

Ba là, nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;

Bốn là, nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng. Về nguyên tắc, đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên đây, vợ, chồng có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình; nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ thì trích chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng (sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân) để thực hiện nghĩa vụ. Những quy định này là cơ sở pháp lý cho việc xác định nghĩa vụ được thực hiện bằng tài sản riêng của vợ, chồng.

Như vậy, nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ, chồng (còn gọi là nợ riêng của vợ, chồng) phát sinh từ các khoản nợ mà vợ, chồng vay của người khác, sử dụng vào mục đích cá nhân, mà không vì lợi ích chung của gia đình; hoặc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng hay các loại nghĩa vụ khác theo luật định (nghĩa vụ cấp dưỡng giữa các thành viên trong gia đình như cha, mẹ, vợ, chồng, con mà vợ, chồng phải thực hiện). Vì thế, theo quy định của pháp luật, vợ, chồng phải bằng tài sản riêng của mình để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ sau đây:

- Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác từ trước khi kết hôn mà không vì nhu cầu đời sống chung của gia đình;

- Nghĩa vụ trả các khoản nợ mà vợ, chồng đã vay của người khác trong thời kỳ hôn nhân sử dụng vào mục đích riêng, không đáp ứng các nhu cầu thiết yếu và lợi ích chung của gia đình;

- Nghĩa vụ trả các khoản nợ phát sinh trong quá trình quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nợ phát sinh khi vợ, chồng đã tiến hành khai thác hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân mà vợ chồng không có thỏa thuận những hoa lợi, lợi tức đó vẫn thuộc tài sản riêng của mỗi người;

Quá trình quản lý, sử dụng, bảo quản tài sản riêng của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân bằng các khoản chi phí mà vợ, chồng vay của người khác, theo nguyên tắc thì vợ, chồng phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản riêng của mình.

- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại khi vợ, chồng là người quản lý di sản thừa kế mà đã có hành vi thực hiện các giao dịch nhằm tẩu tán, phá tán hoặc làm hư hỏng, mất mát di sản [5, Điều 12, khoản 3]. Trong trường hợp này, những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và có quyền yêu cầu chia di sản; Người vợ, chồng còn sống mà quản lý di sản đó có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho những người thừa kế khác theo quy định của pháp luật.

Về nguyên tắc, đối với các khoản nợ và nghĩa vụ phát sinh trên, vợ, chồng có nghĩa vụ phải thanh toán, bồi thường bằng tài sản riêng của mình, nếu tài sản riêng không có hoặc không đủ thì trích chia phần tài sản của vợ, chồng trong khối tài sản chung của vợ chồng (sau khi chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn), để thực hiện nghĩa vụ. Cũng có thể nghĩa vụ tài sản của vợ, chồng được thực hiện bằng tài sản chung của vợ chồng khi vợ chồng thỏa thuận.

2.3. Thực tiễn xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn

2.3.1. Căn cứ xác định tài sản chung vợ chồng

Luật HN&GĐ hiện hành còn có điểm chưa rõ ràng, dẫn đến nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau trong vấn đề liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, trong đó đáng chú ý là các vấn đề sau:

Thứ nhất, vấn đề thừa nhận tài sản chung của vợ chồng nhưng do một bên đứng tên trong giấy tờ về quyền sở hữu

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác” [44, Điều 34, Khoản 1].

Trước đây, Điều 5 Nghị định số 70/2001 quy định kể từ ngày Nghị định có hiệu lực, thì việc đăng ký các tài sản, quyền tài sản thuộc sở hữu chung vợ chồng phải được thực hiện. Nhưng trên thực tế, một số cơ quan có thẩm quyền đã không thực hiện đúng việc này, nhất là ở nông thôn. Việc kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại một số địa phương vẫn chỉ dựa trên kê khai của người dân để cấp cho người đã kê khai. Trong gia đình, đa số người chồng là người đứng ra kê khai nên được cấp giấy chứng nhận, có trường hợp chỉ ghi tên người chồng, có trường hợp ghi “hộ ông, bà ….” nhưng lại không ghi hộ là gồm những ai, nên không thể xác định được chính xác chủ sử dụng. Điều này dẫn đến các Toà án dễ gặp sai sót khi giải quyết án hôn nhân

- gia đình ở khâu xác định tài sản chung, riêng của vợ chồng.

Sau đây tôi xin nêu một ví dụ cụ thể về việc giải quyết quan hệ tài sản của vợ chồng:

Vụ án giữa nguyên đơn là chị Trần Thị L và bị đơn là anh Trần Văn H cùng trú tại bản C, xã Yên Sơn, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La.

Chị Trần Thị L và anh Trần Văn H kết hôn năm 1999, đến năm 2010 do cuộc sống chung có nhiều mâu thuẫn nên chị L nộp đơn xin ly hôn với anh

H. Trong số phần tài sản không thống nhất có nhà đất.

Theo hồ sơ thì nhà, đất thổ cư, đất vườn, đất canh tác, đất nương có nguồn gốc của bố mẹ anh H để lại gồm: đất ở 400m2 (trị giá 32.000.000 đồng), đất vườn 656m2 (trị giá 2.624.000 đồng), 03 mảnh đất nương (gồm thửa đất số 01 diện tích 2.340m2, thửa đất số 02 diện tích 494m2 có tổng trị giá 13.603.000 đồng và thửa số 07 diện tích 3.985m2 trị giá 19.108.000 đồng). Toàn bộ diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên anh Trần Văn H.

- Chị L khai: gia đình anh em chồng có họp bàn giao cho vợ chồng chị được sở hữu nhà, đất. Anh H đã đứng tên trong GCNQSDĐ năm 1999, nên chị xác định toàn bộ tài sản nhà, đất là của vợ chồng, chị yêu cầu chia hiện vật cho chị.

- Anh H cùng anh trai cho rằng: đây là tài sản chung của anh, chị, em anh H nên không đồng ý chia.

Tại Bản án sơ thẩm số 05/2011/HNGĐ-ST ngày 24/5/2011 của Toà án nhân dân huyện Yên Châu đã giải quyết về tài sản như sau:

- Giao cho chị L quyền sử dụng thửa đất số 01 diện tích 2.340m2

thửa đất số 02 diện tích 494m2 có tổng trị giá 13.603.000 đồng.

- Giao toàn bộ diện tích đất ở 400m2, đất vườn 656m2 cho anh H và anh T; Giao cho anh H quyền sử dụng đất thửa số 07 diện tích 3.985m2 trị giá

19.108.000 đồng.

Tại Bản án phúc thẩm số 18/2011/HNGĐ-PT ngày 20/9/2011, Toà án nhân dân tỉnh Sơn La đã quyết định:

- Giao chị L: 328m2 đất vườn trị giá 1.312.000 và quyền sử dụng thửa

đất số 07 diện tích 3.985m2.

- Giao anh H: 400m2 đất ở, 01 nhà gỗ lợp ngói 5 gian và 3 gian bếp lợp ngói; đất vườn 328m2, thửa đất nương số 01 và 02 có tổng trị giá 13.603.000 đồng.

Nghiên cứu tài liệu trong hồ sơ có cơ sở kết luận về giải quyết vấn đề tài sản là nhà đất trong vụ án như sau:

- Về các thửa đất nương: Ngay từ khi anh H, chị L chung sống với nhau, cả hai đã cùng quản lý, sử dụng, canh tác diện tích đất nương. Cả hai anh, chị đều có nhu cầu sử dụng, đều là người làm nông nghiệp. Anh H cũng có lời khai đồng ý chia cho chị đất nương, nên Toà án chia cho mỗi người một phần diện tích đất nương, tạo điều kiện cho mỗi bên ổn định cuộc sống. Do chị L đang nuôi 02 cháu nhỏ, lại là phụ nữ, có khó khăn hơn, Toà án cấp phúc thẩm có điều chỉnh, chia lại số thửa, diện tích cho mỗi bên là cần thiết.

- Về đất ở, đất vườn, nhà: Anh H kết hôn với chị L ngày 25/02/1999. Anh H được cấp GCNQSDĐ ngày 29/12/1999. Biên bản họp gia đình thoả thuận giao tài sản cho anh H đề ngày 20/10/1998, trước ngày anh chị kết hôn (Biên bản không có xác nhận của chính quyền). Toà án cấp phúc thẩm nhận định: “Khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, anh H không thoả thuận và không làm thủ tục cấp riêng, chính quyền địa phương xác nhận thực hiện chính sách giao đất, giao rừng cho các hộ tại địa phương vào năm 1999, toàn bộ diện tích anh H được cấp là Nhà nước cấp cho hộ gia đình” để xác định đây là tài sản chung của anh H - chị L và chia cho anh H, chị L mỗi người một phần là không đúng, bởi các căn cứ sau đây:

+ Nhà, đất ở, đất vườn đã được cấp GCNQSDĐ của UBND huyện Yên Châu ghi: “Chứng nhận ông Trần Văn H được quyền sử dụng 7875m2 đất tại…” và ghi số thửa, diện tích từng thửa. Trong quyết định cũng như trong giấy chứng nhận không ghi cấp cho “hộ gia đình” như Bản án phúc thẩm đã nhận định.

+ Theo lời khai của các nhân chứng và chị L cũng thừa nhận nhà, đất có

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 22/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí