đã đảm bảo quyền lợi cho vợ, chồng vì điều kiện sức khỏe, khả năng lao động, hoàn cảnh gia đình mà chỉ tham gia lao động trong gia đình chứ không tham gia sản xuất ngoài xã hội để trực tiếp tạo ra của cải vật chất.
Căn cứ xác lập tài sản chung chính là “kim chỉ nam” tạo ra đường lối giải quyết các tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
2.2.1.2. Chia tài sản chung của vợ chồng
Khi xác định được tài sản nào là tài sản chung vợ chồng thì việc phân chia như thế nào cho hợp tình hợp lý, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và nhu cầu thực tế sử dụng của vợ chồng là một điều quan trọng.
Việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5 Điều 59 Luật HN&GĐ năm 2014 như sau:
- Thứ nhất: Tài sản chung về nguyên tắc được chia đôi nhưng có xem xét các yếu tố như hoàn cảnh của gia đình và của vợ chồng, công sức đóng góp.
Hoàn cảnh của gia đình và của vợ chồng là điều kiện kinh tế của gia đình, tình trạng sức khỏe, công việc, tuổi tác của các cá nhân trong gia đình và của vợ chồng. Công sức đóng góp là những đóng góp của các bên vào việc tạo lập, giữ gìn, phát triển tài sản chung...
Yêu cầu xem xét hoàn cảnh gia đình là một quy định mới của Luật HN&GĐ năm 2014, quy định này sẽ giúp bảo vệ quyền lợi của những người sống chung cùng gia đình khi vợ chồng ly hôn.
- Thứ hai: Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Hệ thống pháp luật của nước ta nói chung và Luật HN&GĐ nói riêng luôn đứng trên lập trường bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ và các con, giúp đỡ, tạo điều kiện cho các bà mẹ thực hiện tốt thiên chức của mình. Phụ nữ sau khi
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp Luật Ở Miền Nam Trước Ngày Thống Nhất Đất Nước Về Xác Định Tài Sản Vợ Chồng Khi Ly Hôn (1954 - 1975)
- Xác Định Tài Sản Vợ Chồng Khi Ly Hôn Theo Pháp Luật Về Hôn Nhân Và Gia Đình Hiện Hành Và Thực Tiễn Áp Dụng
- Xác Định Tài Sản Vợ Chồng Khi Ly Hôn Trong Trường Hợp Vợ Chồng Áp Dụng Chế Độ Tài Sản Theo Luật Định
- Thực Tiễn Xác Định Tài Sản Vợ Chồng Khi Ly Hôn
- Nguyên Tắc Chia Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Thỏa Thuận Chia Tài Sản Chung Vợ Chồng Khi Ly Hôn Nhằm Trốn Tránh Nghĩa Vụ Tài Sản Khác
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
ly hôn thường dễ tổn thương, họ gặp nhiều khó khăn trong việc làm quen với cuộc sống sau ly hôn. Những người con chưa thành niên là đối tượng cần quan tâm vì những đứa trẻ này có nhận thức về cuộc sống chưa đầy đủ, dễ rơi vào trạng thái buồn chán, tự ti, những đứa con dễ mất đi niềm tin, chỗ dựa khi mà bố mẹ họ bị “tan đàn xẻ nghé”. Những người con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình cũng là một trong những đối tượng cần sự quan tâm đặc biệt bởi họ không tự nuôi sống được bản thân, hơn hết họ cần sự giúp đỡ, yêu thương của những người thân trong gia đình đặc biệt là bố mẹ.
Việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người tàn tật sau khi ly hôn là quy định thể hiện tính nhân đạo của pháp luật và bản chất tốt đẹp của nhà nước ta.
- Thứ ba: Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ, chồng có quyền sản xuất kinh doanh các ngành nghề phù hợp với khả năng, chuyên môn của mình. Vợ chồng có thể mở cơ sở sản xuất kinh doanh hoặc dùng một phần tài sản chung sử dụng vào mục đích kinh doanh với người khác tạo ra thu nhập cho gia đình. Vợ, chồng khi tham gia quan hệ này với người khác có thể nhân danh vợ chồng hoặc nhân danh bản thân mình nhằm đảm bảo cuộc sống chung của vợ, chồng và của gia đình. Vì vậy, tài sản chung của vợ chồng có thể là toàn bộ tài sản dùng để sản xuất kinh doanh hoặc một phần vốn trong các doanh nghiệp, trong các thành phần kinh tế và các tư liệu sản xuất thể hiện dưới dạng vật chất khác của tài sản theo tính chất là động sản hay bất động sản.
Việc chia tài sản chung của vợ chồng khi giải quyết ly hôn có thể ảnh hưởng đến việc sản xuất kinh doanh, hoạt động nghề nghiệp của một bên và ảnh hưởng đến quyền lợi của người thứ ba cùng tham gia sản xuất, kinh doanh.
Vì vậy, quy định này tạo điều kiện cho các bên sau khi ly hôn vẫn đảm bảo được việc sản xuất kinh doanh bình thường, duy trì sự phát triển về kinh tế.
Ví dụ: Ông H tham gia góp vốn vào thành lập Công ty TNHH X hoạt động trong lĩnh vực xây dựng. Vợ chồng ông thống nhất dùng chiếc xe ôtô 4 chỗ trị giá 2 tỷ đồng là tài sản chung của vợ chồng để tham gia góp vốn vào Công ty X. Công ty X dùng chiếc xe này làm phương tiện vận chuyển cho hoạt động đi lại của lãnh đạo công ty.
Trong trường hợp này, ông H đã dùng tài sản chung của vợ chồng để tham gia vào hoạt động kinh doanh, tạo ra thu nhập là tài sản chung của vợ chồng. Khi giải quyết ly hôn, việc chia tài sản chung của vợ chồng được giải quyết trên nguyên tắc chia đôi nhưng có xem xét đến việc đảm bảo lợi ích chính đáng của ông H trong hoạt động sản xuất kinh doanh để ông H có thể tạo ra thu nhập. Vì vậy, nếu vợ chồng không thỏa thuận được vấn đề tài sản, Tòa án sẽ ưu tiên giao chiếc xe ôtô cho ông H sử dụng để ông có điều kiện tiếp tục hoạt động kinh doanh trong Công ty X.
Hay như trường hợp vợ chồng bà B có tài sản chung là một quầy tạp hóa ở chợ. Bà B là người trực tiếp kinh doanh, buôn bán tại quầy tạp hóa này, còn ông N (chồng bà B) có một công việc ổn định khác. Khi giải quyết ly hôn, nếu vợ chồng bà B không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ xem xét hoàn cảnh của mỗi bên cũng như các điều kiện khác trong công việc, Tòa án sẽ quyết định giao tài sản là quầy tạp hóa cho bên có nhu cầu hơn. Trong trường hợp này, bà B là người trực tiếp dùng quầy tạp hóa để kinh doanh, tạo ra thu nhập còn ông N đã có công việc ổn định nên giao tài sản này cho bà B để bà tiếp tục kinh doanh là hợp lý.
- Thứ tư: Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản
bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.
Đây là một quy định mở trong chế định phân chia tài sản chung của vợ chồng, theo đó khi phân chia tài sản chung Thẩm phán có thể xem xét để linh động chia cho các bên bằng hiện vật hoặc bằng giá trị. Việc chia tài sản bằng hiện vật luôn được ưu tiên nhưng nếu tài sản không thể chia bằng hiện vật hoặc một bên không có nhu cầu thì Thẩm phán sẽ xem xét đến nhu cầu sử dụng, khả năng tài chính của vợ chồng để quyết định giao hiện vật cho ai.
Việc xác định giá trị tài sản là điều cốt lõi giúp cho nguyên tắc này được thực hiện đúng mục đích. Trước khi có Luật HN&GĐ năm 2014 thì Nghị quyết 02/2002/HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định “Việc xác định giá trị khối tài sản chung của vợ chồng hoặc phần giá trị mà họ phải thanh toán, họ được hưởng là căn cứ vào giá giao dịch thực tế tại địa phương vào thời điểm xét xử” [17, mục 12].
- Thứ năm: Việc chia tài sản chung cũng phải dựa trên cơ sở xem xét đến lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.
Vợ, chồng có các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản. Nếu vợ hoặc chồng vi phạm các quyền và nghĩa vụ này đồng nghĩa với việc họ có lỗi trong việc dẫn đến gia đình tan vỡ, họ phải chịu trách nhiệm vì những vi phạm đó. Quy định này góp phần nâng cao trách nhiệm của vợ, chồng trong việc vun đắp, xây dựng gia đình hạnh phúc, gìn giữ, phát triển khối tài sản chung, tránh vợ, chồng có hành vi phá tán tài sản gây ảnh hưởng quyền lợi của vợ, chồng và những thành viên khác trong gia đình. Đây là một quy định mới của Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện sự răn đe đối với những người vợ, người chồng không có ý thức giữ gìn, bảo vệ hạnh phúc gia đình.
Bên cạnh các quy định trên thì Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định các trường hợp phân chia tài sản chung của vợ, chồng trong các trường hợp
đặc biệt, ví dụ như chia tài sản chung trong trường hợp vợ, chồng sống chung cùng gia đình mà ly hôn (Điều 61), chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn (Điều 62).
Trường hợp vợ chồng sống chung cùng gia đình thì việc xác định tài sản chung được phân biệt như sau: “Nếu phần tài sản trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng…” [44, Điều 61].
Thực tế việc xác định được công sức đóng góp của vợ, chồng vào khối tài sản chung với gia đình là khó, vì khi cuộc sống chung của gia đình còn đầm ấm thì không ai có sự rạch ròi về việc thu nhập bao nhiêu, đóng góp bao nhiêu vào tài sản chung, khi ly hôn các bên không có chứng cứ chứng minh là mình đã đóng góp bao nhiêu là điều dễ hiểu, hơn nữa vì số lượng người tham gia tranh chấp nhiều nên việc giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 61 trở nên phức tạp.
“Nếu phần tài sản chung của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ, chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia” [44, Điều 61]. Khi tài sản của vợ, chồng được xác định theo phần thì việc phân chia tài sản của vợ, chồng sẽ đơn giản hơn. Tuy nhiên, trường hợp này rất ít vì như phân tích ở trên, quá trình chung sống đóng góp của các cá nhân không có con số cụ thể, không định lượng bằng một con số rõ ràng.
Bên cạnh việc pháp luật quy định về việc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn mà sống chung cùng gia đình thì pháp luật cũng quy định về trường hợp chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn, quy định này xuất phát từ tính chất và tầm quan trọng của quyền sử dụng đất trong khối tài sản chung của vợ chồng.
Trước hết, pháp luật tôn trọng quyền sở hữu riêng của mỗi người, theo đó quyền sử dụng đất riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó [44, Điều 62, khoản 1].
Đối với quyền sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản thì việc phân chia tài sản chung được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 62 Luật HN&GĐ năm 2014.
Đối với đất mà vợ chồng được Nhà nước cho thuê, trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực thì theo quy định tại Nghị định số 70/2001/NĐ- CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì quyền sử dụng đất mà cả vợ và chồng hoặc chỉ một bên vợ hoặc chồng được Nhà nước cho thuê là tài sản chung của vợ chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 25 và việc chia quyền sử dụng đất của vợ chồng được giao chung với hộ gia đình được thực hiện theo quy định tại Điều 27.
Thực tiễn xét xử cho thấy, Tòa án gặp nhiều vướng mắc khi quyết định việc chia cho vợ, chồng nhà đất hay giá trị khi vợ chồng sống chung cùng gia đình mà ly hôn. Nhiều trường hợp vợ, chồng có công sức đóng góp lớn vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung nhưng không trực tiếp đóng góp vào tài sản là quyền sử dụng đất, khi ly hôn thì mặc dù gia đình có nhiều đất nhưng lại không đồng ý trích chia đất cho vợ chồng. Trường hợp này Tòa án cần cân nhắc kỹ lưỡng mới có thể đưa ra phán quyết làm sao cân bằng được lợi ích và thỏa mãn ý chí của các bên. Bên cạnh đó, việc chia nhà, đất cũng cần xem xét đến yếu tố là mối quan hệ của các bên, nếu các bên có mâu thuẫn sâu sắc thì cần cân nhắc việc chia nhà, đất vì nếu họ sống cạnh nhau thì mẫu thuẫn giữa họ sẽ càng nhiều, ảnh hưởng đến cuộc sống của tất cả các thành viên trong gia đình.
Tóm lại, việc chia quyền sử dụng đất cần gắn liền với nhu cầu và điều kiện sử dụng đất của các bên. Đây là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, nhằm đảm
bảo cho vợ, chồng có thể tiếp tục sản xuất trên đất để ổn định cuộc sống sau khi ly hôn, đồng thời không bỏ hoang hóa đất…
2.2.1.3. Xác định nghĩa vụ chung của vợ chồng
Điều 60 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định việc giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi ly hôn như sau:
1. Quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba vẫn có hiệu lực sau khi ly hôn, trừ trường hợp vợ chồng và người thứ ba có thỏa thuận khác.
2. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền, nghĩa vụ tài sản thì áp dụng quy định tại các điều 27,37 và 45 của Luật này và quy định của Bộ luật dân sự để giải quyết.
Tức là vợ chồng có thể thỏa thuận với bên thứ ba (người cho vay) về thanh toán khoản nợ. Nếu không thỏa thuận được, thì áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2014 như sau.
Vợ chồng chịu trách nhiệm liên đới về các nghĩa vụ quy định tại Điều 37 của Luật này.
Trong đó, các nghĩa vụ chung về tài sản vợ chồng quy định tại Điều 37 bao gồm:
1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;
2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;
3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;
4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của
gia đình;
5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;
6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.
Ví dụ về nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình: Anh A và chị B kết hôn năm 2012, đến năm 2014 do sinh thêm em bé nên chỗ ở của anh chị quá nhỏ, không đảm bảo đời sống sinh hoạt cho gia đình nên vợ chồng anh chị có mua một ngôi nhà trị giá 950 triệu đồng, trong đó: 430 triệu tiền bán nhà cũ (do bố mẹ anh A mua năm 2011); 200 triệu tiền tiết kiệm của hai vợ chồng, 320 triệu vay từ chị C.
Như vậy, khi ly hôn khoản nợ 320 triệu sẽ là khoản nợ liên đới giữa anh A và chị B. Khi chị C yêu cầu anh A thanh toán khoản nợ này thì anh A phải thanh toán đầy đủ cho chị C. Sau đó, anh A có quyền đòi một phần tiền đã thanh toán từ chị B.
2.2.2. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Pháp luật thừa nhận quyền có tài sản riêng của vợ chồng. Vợ, chồng hoàn toàn có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của mình khi ly hôn.
2.2.2.1. Căn cứ xác định tài sản riêng của vợ, chồng
Kế thừa giá trị của Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000, Điều 43 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
“1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các Điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.