,một số tác giả khác như Marsden và công sự (1988), Lin (1999), Mau và cộng sự (2001)... không cho rằng đây là ảnh hưởng tích cực của vốn xã hội đến kết quả tìm kiếm việc làm. Thậm chí, có nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng tiêu cực của vốn xã hội đến các đối tượng trong thị trường lao động như nghiên cứu của Flap và công sự. Flap và cộng sự cho rằng, vốn xã hội đưa đến công việc là lợi thế, nhưng cũng rất có thể, chấp nhận công việc đó không phải là lợi thế khi đã bỏ qua một cơ hội có công việc tốt hơn. Nhận định của Franzen và cộng sự củng cố thêm luận điểm này khi họ nhận thấy những bất lợi về thu nhập của những sinh viên Thụy Điển khi chấp nhận công việc thông qua mạng lưới quan hệ của mình [Franzen A., Hangartner D, 2006].
Mạng lưới xã hội cho phép những người tìm kiếm việc làm có được những thông tin tốt hơn, do vậy họ có thể lựa chọn được các công việc tốt hơn. Thực chất, thông tin của mạng lưới xã hội không chỉ đơn thuần phục vụ cho cá nhân tìm kiếm việc làm mà nó còn thể hiện sự mong muốn của người tiếp nhận lao động, đôi khi lợi ích kinh tế đem lại cho người tiếp nhận lao động hơn là người lao động bởi họ tiết kiệm được chi phí thuê và chi phí giới thiệu lao động. Chính Granovetter cũng thừa nhận hạn chế này trong một nghiên cứu khác công bố năm 1995. Kết luận của Fernandez và cộng sự thể hiện rõ điều này khi họ phân tích vốn xã hội trong mạng lưới giới thiệu việc làm của những người làm công trong các công ty mang lại lợi ích cho ông chủ vì đã giúp họ tiết kiệm được chi phí thuê mướn lao động và giảm chi phí giới thiệu [Fernandez R. M., Castilla E. J, 2001].
Cùng với cách tiếp cận này, một số nghiên cứu tại Việt Nam của Nguyễn Quý Thanh (2005, 2012), Lê Ngọc Hùng (2003, 2008), Nguyễn Tuấn Anh (2010, 2012) đã được trình bày ở trên đề cập khá khiêm tốn đến vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực ở khía cạnh thị trường lao động để phát triển kinh tế hộ gia đình cũng như tìm kiếm việc làm cho người lao động.
Nghiên cứu của Nguyễn Quý Thanh (2005) quan tâm đến quan hệ gia đình trong việc đảm bảo lao động ở hai mặt tích cực và tiêu cực; các mối quan hệ xã hội được sử dụng trong quá trình tìm kiếm việc làm. Cùng với luận điểm đó, khi nghiên cứu khu vực nông thôn, Nguyễn Tuấn Anh (2010) đã nhìn thấy vốn xã hội tác động tích cực trong việc huy động, trao đổi các nguồn lực xã hội trong đó có nguồn lao động thông qua các mối quan hệ họ hàng.
Các nghiên cứu của Lê Ngọc Hùng (2008) xuất phát từ lý thuyết vốn xã hội với góc nhìn kinh tế đã phân tích các trường hợp mạng lưới xã hội của người lao động tự do ở Hà Nội, mạng lưới tìm kiếm việc làm của sinh viên. Tác giả đã chỉ ra vai trò của vốn xã hội trong mối quan hệ với vốn con người trong mạng lưới xã hội, nhờ đó các cá nhân tham gia mạng lưới giảm chi phí giao dịch và có được những thông tin chính xác, cần thiết trong quá trình tìm kiếm việc làm.
Đề cập trực tiếp đến chủ đề vốn xã hội đối với sự phát triển nguồn lực trẻ tại Việt Nam, hai công trình là “Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”- Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Hồi Loan và Nguyễn Thị Kim Hoa (đồng chủ biên), và “Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ từ những hướng tiếp cận khác nhau”- Nguyễn Thị Kim Hoa, Nguyễn Hồi Loan và Nguyễn Tuấn Anh (đồng chủ biên) được xuất bản trong khuôn khổ đề tài cấp Nhà nước “Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”- mã số: KX.03.09/11-15. Địa bàn nghiên cứu thuộc 6 tỉnh/thành phố, đại diện cho các vùng miền và khu vực địa lý khác nhau là Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh, Tuyên Quang, Nghệ An, Đắc Lắc và Đồng Tháp. Tổng số đối tượng tham gia khảo sát định lượng của đề tài là 3.000 cán bộ trẻ làm việc trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nhà nước.
Công trình thứ nhất “vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” trình bày một cách toàn diện, hệ thống và sâu sắc về vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta. Nghiên cứu chỉ rõ tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực trẻ không chỉ đối với sự phát triển kinh tế xã hội trong thời điểm hiện tại mà còn có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển bền vững đất nước trong tương lai. Phần đầu của nghiên cứu phân tích rõ các đặc điểm nguồn nhân lực trẻ qua 3000 mẫu khảo sát tại 6 tỉnh. Theo đó, các đặc điểm về cơ cấu đội ngũ nhân lực trẻ, sự phù hợp giữa yêu cầu của công việc và chuyên môn đào tạo nhân lực trẻ, năng lực ngoại ngữ và tin học của nhân lực trẻ, sự năng động trong tìm kiếm việc làm của đội ngũ nhân lực trẻ; thu nhập và chi tiêu của nhân lực trẻ. Trong đó, một số kết quả đáng lưu ý là phần lớn nhân lực trẻ trong mẫu khảo sát có bằng cấp cao, chủ yếu có bằng đại học và sau đại học, chỉ hơn 10% nhân lực trẻ có bằng cấp thấp hơn. Tuy vậy, nhiều nhân lực trẻ đang thực hiện những công việc mà bản
Có thể bạn quan tâm!
- Hướng Nghiên Cứu Về Vai Trò, Tác Động Tích Cực Và Tiêu Cực Của Vốn Xã Hội
- Nghiên Cứu Vận Dụng Lý Thuyết Vốn Xã Hội Vào Thực Tiễn
- Nghiên Cứu Về Nguồn Nhân Lực Trẻ Việt Nam, Nguồn Nhân Lực Trẻ Hà Nội Và Thành Phố Hồ Chí Minh
- Vai Trò Của Vốn Xã Hội Trong Phát Triển Nhân Lực Trẻ
- Tình Hình Kinh Tế- Xã Hội Hà Nội Và Thành Phố Hồ Chí Minh
- Tình Hình Kinh Tế - Xã Hội Địa Bàn Thành Phố Hồ Chí Minh
Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.
thân họ cho là không hoàn toàn phù hợp với chuyên môn được đào tạo. Phần lớn nhân lực trẻ tự đánh giá năng lực ngoại ngữ và tin học không đáp ứng yêu cầu công việc. Điều này có tác động tới việc bố trí nhân lực trẻ trong các cơ quan nhà nước [Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Hồi Loan và Nguyễn Thị Kim Hoa, 2015].
Công trình thứ hai là tập hợp các bài phân tích về vốn xã hội từ những hướng tiếp cận khác nhau. Theo đó, ở phần một, các bài viết tập trung vào mối quan hệ giữa vốn xã hội và nguồn nhân lực trẻ trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phần hai của cuốn sách trình bày về vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ ở một số địa phương như Quảng Ninh, Tuyên Quang, Nghệ An, Hà Nội. Chủ đề về vốn xã hội và kỹ năng của nguồn nhân lực trẻ được phân tích ở phần ba, theo đó, khía cạnh phát triển nguồn nhân lực nữ và cơ hội việc làm của sinh viên, nhất là sinh viên nhóm ngành Khoa học xã hội và nhân văn được đề cập rất kỹ qua bốn bài phân tích [Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Hồi Loan và Nguyễn Thị Kim Hoa, 2016].
Có thể khẳng định rằng, cho đến nay, vấn đề “Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ” chưa được nghiên cứu nhiều nên không thể đề cập một cách toàn diện, hệ thống tất cả các mặt của vấn đề, đây là thách thức nhưng cũng là cơ hội cho các nghiên cứu tiếp theo muốn khai thác. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết của xã hội trong phát triển và xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội hiện nay tại Việt Nam đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực trẻ. Trong vấn đề nghiên cứu này, tác giả sử dụng bộ số liệu thô của công trình nghiên cứu KX.03.09/11-15 tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với mong muốn đề cập đến việc kết nối giữa vấn đề phát triển nguồn nhân lực trẻ trong các cơ quan hành chính nhà nước và vốn xã hội như một hướng nghiên cứu cụ thể. Luận án sẽ đi sâu tìm hiểu quá trình tạo dựng, duy trì vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ trong các cơ quan hành chính nhà nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh thông qua việc tham gia các hoạt động trong các nhóm xã hội, các mạng lưới xã hội, trong khai thác mối quan hệ xã hội. Đồng thời, phân tích việc nguồn nhân lực trẻ trong các cơ quan hành chính nhà nước tại hai thành phố này sử dụng vốn xã hội nhằm tiếp cận cơ hội về tuyển dụng, bồi dưỡng, đào tạo, bổ nhiệm, thực thi công vụ và nâng cao thu nhập trong giai đoạn hiện nay. Việc đánh giá các chiều cạnh tạo dựng, duy trì và sử dụng vốn xã hội của nguồn nhân lực trẻ dựa vào lát cắt nhân khẩu học của nhóm xã hội này, giúp cho việc nhận diện, so sánh, phân tích sự giống và khác biệt của nguồn nhân lực trẻ trên hai địa bàn nghiên cứu.
Trên tinh thần đó, tác giả luận án sẽ kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan để tiếp tục đi sâu nghiên cứu việc vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ trong các cơ quan hành chính nhà nước tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nhằm có cách nhìn toàn diện hơn về ý nghĩa và vai trò của vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực tại hai thành phố lớn của đất nước.
Tiểu kết chương 1
Sau khi khảo sát (ở mức độ nhất định) các công trình nghiên cứu về vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực trẻ thông qua các hướng tiếp cận khác nhau, nhất là vốn trong phát triển nguồn nhân lực trẻ ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy vốn xã hội là hệ thống khái niệm, lý thuyết mới được phát triển mạnh ở Việt Nam trong những năm gần đây.
Hệ thống khái niệm và các lý thuyết bàn luận về vốn xã hội trên thế giới được ghi nhận lần đầu tiên vào năm 1916 bởi Hanifan và dần sau đó khái niệm này được nhắc lại sau 40 năm và vào đầu những năm 1970 Bourdieu chính thức sử dụng khái niệm này trong các nghiên cứu của ông. Và hệ thống khái niệm vững chắc với khung lý thuyết được xây dựng bởi Coleman và Putnam (1993) thì vốn xã hội thực sự được bàn luận sôi nổi trên diễn đàn học thuật quốc tế.
Các hướng nghiên cứu về vốn xã hội đa dạng và phong phú, tuy nhiên, chủ yếu nghiêng về vai trò tích cực của vốn xã hội trong kinh tế, phát triển nguồn lực. Trong đó, quan điểm vốn xã hội là sự đầu tư vào các quan hệ, các hội trong các mạng lưới xã hội nhằm sinh ra lợi nhuận trong tương lai có sự đồng thuận giữa Nan Lin, Bourdieu, Coleman, Putnam nhưng cũng có những khác biệt đáng kể khi phân tích sâu hơn. Hướng nghiên cứu vai trò của vốn xã hội trong phát triển các nguồn lực, các vốn khác trong đó có vốn con người và đầu tư vào vốn con người, có nghĩa là đầu tư vào vốn xã hội và ngược lại (Bourdieu); vốn xã hội góp phần hình thành vốn con người, vốn con người thể hiện qua việc cá nhân được đào tạo và thu nhận để tạo thành kỹ năng (Colemam); vốn xã hội là các mạng lưới xã hội ảnh hưởng đến sự hình thành các cá nhân và nhóm thông qua các giá trị, khế ước xã hội (Putnam); vốn xã hội là tin cậy lẫn nhau của các thành viên trong cộng đồng trong các mối quan hệ (Fukuyama).
Nghiên cứu về vốn xã hội ở Việt Nam cho thấy vốn xã hội là lĩnh vực khá mới mẻ, bắt đầu được đề cập trong những năm gần đây. Tiếp cận vốn xã hội ở Việt Nam cũng ghi nhận trên khía cạnh kinh tế và xã hội (Lê Ngọc Hùng). Hướng nghiên cứu vận dụng lý thuyết vốn xã hội vào thực tiễn ở Việt Nam cũng được ghi nhận là có và chủ yếu trên khía cạnh kinh tế. Bên cạnh đó, cũng phát triển trên cả khía cạnh văn hóa truyền thống, giáo dục, vốn con người, nguồn nhân lực. Tuy nhiên, chủ yếu dừng lại các mối quan hệ gia đình, dòng họ hoặc các tổ chức chính trị, cộng đồng hỗ trợ trẻ em trong giáo dục ở nông thôn gắn với xóa đói giảm nghèo. Các hướng nghiên cứu ứng dụng khác được ghi nhận là có nhưng chưa đưa ra các số liệu để khẳng định được vai trò của vốn xã hội. Chính vì vậy, đây là mảng vấn đề còn trống vắng mà luận án hướng tới.
Nghiên cứu về nguồn nhân lực phân tích trên khía cạnh các quan điểm nghiên cứu nguồn nhân lực trên thế giới cho thấy nguồn nhân lực là thuật ngữ sử dụng để sức người gồm cả khả năng và phẩm chất tham gia vào lao động sản xuất. Chất lượng nguồn nhân lực, hàm lượng trí tuệ là những tiêu chí được đánh giá cao khi nhắc đến nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực được xét trên cả bình diện cá nhân và xã hội với 3 bình diện thể lực, trí tuệ và đạo đức cấu thành chất lượng cá thể của nguồn nhân lực. Đây là những gợi ý về các chỉ báo đo lường chất lượng nguồn nhân lực trẻ trong luận án.
Nghiên cứu nguồn nhân lực ở Việt Nam được đề cập nhiều hơn khoảng hơn 10 năm trở lại đây, các nghiên cứu đề cập trên nhiều khía cạnh. Trong đó, có sự phân chia nhân lực phổ thông và nhân lực chất lượng cao là một gợi ý trong đo lường nguồn nhân lực trẻ trong luận án.
Nghiên cứu về nguồn nhân lực trẻ ở Việt Nam, Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy các đề tài cụ thể còn ít, phổ biến là các bài báo khoa học trên các tạp chí chuyên ngành. Nguồn nhân lực trẻ tại hai thành phố lớn ở Việt Nam được khẳng định là nguồn nhân lực quan trọng trong quá trình phát triển đất nước. Mặc dù các công trình thực tiễn chưa nhiều nhưng các bài viết phân tích khá tốt về các chỉ báo đo lường nguồn nhân lực trẻ là cơ sở lý luận và thực tiễn cho tác giả trong đo lường vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ ở thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Tác giả luận án kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, các tác giả có liên quan để tiếp tục đi sâu nghiên cứu vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ ở thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN, ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Các khái niệm công cụ
2.1.1.1. Vốn xã hội
Năm 1916, nhà giáo dục học người Mỹ Hanifan lần đầu tiên đưa ra khái niệm về vốn xã hội với ý nghĩa như là những thứ hữu hình cần phải tính đến trong cuộc sống thường ngày của con người. Hơn 40 năm sau, khái niệm vốn xã hội lại được Jane Jacobs đề cập lại khi mô tả các mối quan hệ trong cuộc sống đô thị vào năm 1960. Đầu những năm 1970, Bourdieu đã dùng khái niệm này trong các nghiên cứu của ông và sau 16 năm sau vào năm 1986 Bourdieur đưa ra một định nghĩa về vốn xã hội. Tuy nhiên, khái niệm vốn xã hội được nhiều học giả và các tổ chức quốc tế quan tâm nghiên cứu và trao đổi rộng rãi khi Coleman xây dựng cho nó một khung lý thuyết tương đối rõ ràng và được Putnam (1993) nhắc đến trong các nghiên cứu của ông.
Bệnh cạnh đó, có nhiều tác giả đưa ra các quan điểm về vốn xã hội khác nhau, tuy nhiên phân tích này chỉ quan tâm đến các quan điểm về vốn xã hội dựa trên các khía cạnh sau đây: (i) Vốn xã hội gắn liền với mạng lưới xã hội, quan hệ xã hội (Bourdieu 1986; Coleman 1988; Lin 2001; Portes 1998). (ii) Vốn xã hội được định nghĩa từ khái niệm nguồn lực (Bourdieu 1986; Lin 2001; Baker 1990). (iii) Vốn xã hội có được thông qua việc đầu tư vào các quan hệ xã hội hoặc mạng lưới xã hội, các cá nhân có thể sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi ích (Bourdieu 1986; Coleman 1988; Putnam 2000; Lin 1999; Portes 1998). (iv) Vốn xã hội là sự tin cậy và quan hệ có đi có lại với nhau (Bourdieu 1986; Coleman 1988; Fukuyama 2002; Portes 1998; Putnam 2000)
Bourdieu định nghĩa vốn xã hội là “tổng hợp các nguồn lực thực tế hoặc tiềm năng liên quan với việc sở hữu một mạng lưới bền vững, được thể chế hóa ít hay nhiều các mối quan hệ quen biết lẫn nhau - hay nói cách khác, để thành viên trong một nhóm - cung cấp cho mỗi thành viên của mình với sự ủng hộ của tập thể - sở hữu vốn…” [Bourdieu, 1986]
Theo Coleman, vốn xã hội là dạng tài nguyên tồn tại trong mối quan hệ giữa các chủ thể được biểu hiện thông qua những thay đổi trong mối quan hệ
giữa người với người để tạo điều kiện hoạt động. Coleman thấy vốn xã hội như là một sản phẩm phụ của các hoạt động khác. Giá trị của vốn xã hội được hiểu là nguồn tài nguyên mà các chủ thể có thể sử dụng để đạt được lợi ích của họ. Chủ thể thiết lập quan hệ có mục đích và duy trì mối quan hệ đó nếu họ tiếp tục có cùng lợi ích [Coleman J, 1988].
Fukuyama cho rằng, “vốn xã hội là một chuẩn mực chính thức nhằm thúc đẩy hợp tác giữa hai hoặc nhiều cá nhân. Các chuẩn mực cấu thành vốn xã hội có thể là từ một chuẩn mực có đi có lại giữa hai người bạn... Chúng phải được chứng minh trong một mối quan hệ con người thực tế: chuẩn mực có đi có lại tồn tại trong các giao dịch của tôi với tất cả mọi người, nhưng thực chất chỉ trong các giao dịch của tôi với bạn bè của tôi” [Fukuyama.F, 1999].
Nam Lin cho rằng, “vốn xã hội có thể được định nghĩa hoạt động như các nguồn lực gắn với việc tiếp cận hoặc sử dụng mạng lưới xã hội bởi các chủ thể của hành động” [Lin Nan, 2001].
Theo Putnam, “vốn xã hội đề cập đến các kết nối giữa các cá nhân - mạng xã hội và tiêu chuẩn có đi có lại và sự tin cậy nảy sinh giữa họ” [Putnam, 2000]. Theo Putnam, các phương tiện truyền thông như truyền hình, internet và công nghệ hiện đại khác dẫn đến tình huống mà mọi người trong xã hội hiện đại không đầu tư vào nguồn vốn xã hội như việc tham gia các tổ chức tự nguyện như công đoàn, các hội nghề nghiệp, nhóm giáo hội,… Nói chung, hầu hết mọi người thích làm các hoạt động không có sự tham gia của người khác. Họ ít tham gia trong cuộc bầu cử, ít tham dự các cuộc họp công cộng, và nói chung là ít tham gia vào thế giới bên ngoài. Những người tham gia ít hơn trong các hoạt động công cộng, sự tin tưởng và hỗ trợ lẫn nhau giảm, do đó dẫn đến sự suy giảm của vốn xã hội [Putnam, 1995]
Xuất phát từ các quan niệm về vốn xã khác nhau và bốn luận điểm thống nhất của các nhà khoa học nêu trên, nghiên cứu này thống nhất sẽ sử dụng khái niệm vốn xã hội theo nghĩa như sau: vốn xã hội bao gồm: mạng lưới xã hội, lòng tin và quan hệ có đi có lại được tạo dựng, duy trì, tích lũy thông qua việc đầu tư vào các quan hệ xã hội các thành viên trong nhóm, cộng đồng xã hội. Vốn xã hội được xem như là một nguồn lực của mạng lưới xã hội, lợi ích nhận được từ mạng lưới xã hội là những điều kiện thuận lợi để chủ thể tham gia huy động và sử dụng vốn xã hội có hiệu quả trong đời sống xã hội.
2.1.1.2. Vai trò
Vai trò xã hội của mỗi cá nhân được xác lập trên cơ sở các vị thế xã hội mà cá nhân đó nắm giữ. Mỗi một vị thế xã hội đòi hỏi có một mô hình hành vi tương ứng được xã hội mong đợi và thừa nhận. Những mô hình hành vi đó có được nhờ học hỏi được những kinh nghiệm, lối sống, khuôn mẫu, tác phong từ trước đó trong cuộc sống.
Luận án sử dụng khái niệm: Vai trò là tập hợp các chuẩn mực, hành vi, nghĩa vụ và quyền lợi gắn với một vị thế nhất định. Sự phối hợp và tương tác qua lại các khuôn mẫu được tập trung thành một nhiệm vụ xã hội gọi là vai trò.
Như vậy, vai trò chính là những hành vi đang được mong đợi đối với vị thế xã hội nào đó trong một xã hội nhất định. Do đó, cùng một vị thế xã hội nào đó nhưng trong các xã hội khác nhau thì mô hình hành vi được xã hội mong đợi cho vị thế đó cũng không giống nhau, vì thế vai trò xã hội cũng không giống nhau.
Khi nghiên cứu về vai trò xã hội và việc mỗi cá nhân đóng các vai trò xã hội cho thấy vai trò có một số tính chất sau:
Thứ nhất, đối với mỗi cá nhân đóng vai trò xã hội có thể có nhiều mức độ thể hiện hay những sắc thái khác nhau về khuôn mẫu tác phong. Vai trò không chỉ đơn thuần bao gồm những khuôn mẫu tác phong bộc lộ ra bên ngoài mà bao gồm cả những khuôn mẫu nội dung tinh thần ở bên trong.
Thứ hai, một người không chỉ có một vai trò mà có nhiều vai trò. Mức độ nhiều hay ít các vai trò phụ thuộc vào mức độ tham gia nhiều hay ít của một người nào đó vào các mạng lưới xã hội, do đó số lượng vai trò mà mỗi cá nhân trong xã hội có được dựa hoàn toàn vào mạng lưới quan hệ xã hội của họ.
Thứ ba, các vai trò có mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Một người nào đó thực hiện vai trò của mình thì đồng thời họ đã hành động trong sự tương tác với vai trò của người khác. Nói một cách khác, để thực hiện được vai trò của mình, con người không thể tách rời một cách cô lập đối với người khác. Nhà xã hội học Geoge Mead đã nói rằng, chỉ cần xem người khác ứng xử với một người nào đó như thế nào là chúng ta có thể hiểu được họ là người như thế nào. Do đó, vai trò xã hội được phát sinh dựa trên hai nhu cầu đó là nhu cầu bổ khuyết những mặt hạn chế của bản thân và nhu cầu giao dịch vì lợi ích.
Thứ tư, Vai trò xã hội được thể hiện ở nhiều mặt: Vai trò thật và vai trò giả, vai trò định chế và vai trò tự chọn ...