hiệu quả nhằm đạt được mục tiêu xác định của người học [4].
Dựa trên các quan điểm về TH, NLTH của Candy [67], Taylor [109], Nguyễn Cảnh Toàn [51], Trần Bá Hoành [22], Thái Duy Tuyên [59],... , chúng tôi quan niệm: NLTH là thuộc tính cá nhân cho phép HS chủ động, tích cực sử dụng các nguồn lực hiện có (kiến thức, kĩ năng, động cơ, tình cảm…) để thực hiện thành công việc lập và thực hiện kế hoạch học tập, đánh giá kết quả đạt được và điều chỉnh nhằm đạt được các mục tiêu học tập đã được xác định.
1.3.2.2. Cấu trúc và các biểu hiện của NLTH ở HS THPT
Xác định cấu trúc và mô tả được những biểu hiện là cơ sở quan trọng để phát triển và đánh giá NLTH của HS. Candy [67] đã đưa ra 2 nhóm biểu hiện của người có NLTH là nhóm tính cách và nhóm PP học với 12 biểu hiện như mô tả ở hình 1.8.
Hình 1.8. Biểu hiện của NLTH [67]
Theo Taylor [109] người có NLTH được biểu hiện với 16 thành tố và xếp thành ba nhóm: (1) thái độ; (2) tính cách và (3) kỹ năng được mô tả trong hình 1.9.
Hình 1.9. Biểu hiện của người có NLTH [109]
Theo Chương trình GDPT tổng thể 2018 [8], NLTH của HS THPT có các biểu hiện sau: xác định được nhiệm vụ học tập dựa trên kết quả đã đạt được; biết đặt mục tiêu học tập chi tiết, cụ thể, khắc phục những hạn chế; đánh giá và điều chỉnh được kế hoạch học tập; hình thành cách học riêng của bản thân; tìm kiếm, đánh giá và lựa chọn được nguồn tài liệu phù hợp với mục đích, nhiệm vụ học tập khác nhau; ghi chép thông tin bằng các hình thức phù hợp, thuận lợi cho việc ghi nhớ, sử dụng, bổ sung khi cần thiết; tự nhận ra và điều chỉnh được những sai sót, hạn chế của bản thân trong quá trình học tập; suy ngẫm cách học của mình, rút kinh nghiệm để có thể vận dụng vào các tình huống khác; biết tự điều chỉnh cách học; biết thường xuyên tu dưỡng theo mục tiêu phấn đấu cá nhân và các giá trị công dân.
Vương Cẩm Hương [30] đưa ra cấu trúc NLTH của HS THPT với 3 NL thành phần và 8 biểu hiện gồm: (1) Xác định mục tiêu và nội dung cần TH, (2) Xác định phương pháp và phương tiện TH, (3) Xác định thời gian TH và dự kiến kết quả, (4) Thu thập/tìm kiếm nguồn thông tin TH, (5) Phân tích và xử lí thông tin đã tìm kiếm,
(6) Vận dụng kiến thức, kĩ năng để giải quyết tình huống/nhiệm vụ học tập, (7) Đánh giá kết quả TH theo thang đánh giá NLTH và chuẩn kiến thức, kĩ năng, (8) Điều chỉnh và rút ra bài học kinh nghiệm cho nhiệm vụ TH tiếp theo.
Như vậy, NLTH của HS không chỉ biểu hiện qua kĩ năng, phương pháp TH mà còn qua các yếu tố thái độ và tính cách. Để phát triển được NLTH đòi hỏi HS phải kiên trì, tự chủ, thường xuyên lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động học tập có tính phức hợp, do đó GV cần tích cực kết hợp các phương thức tổ chức TH và có biện pháp quản lý và khích lệ hoạt động TH của HS. Ngoài ra để đánh giá hiệu quả của các biện pháp phát triển NLTH, GV cũng cần phải mô tả rõ ràng, cụ thể các mức độ biểu hiện NLTH tương ứng với các hoạt động TH mà GV tổ chức.
1.4. Tổng quan về blended learning
1.4.1. Khái niệm blend learning
Thuật ngữ “blended learning” có thể diễn đạt với các thuật ngữ tiếng Việt như “dạy học hỗn hợp” hay “dạy học kết hợp” hoặc "học tập lai", "hướng dẫn qua trung gian công nghệ", "hướng dẫn web nâng cao", và "hướng dẫn chế độ hỗn hợp" [87].
Picciano A. G., Dziuban C. D., Graham C. R. [96] đã tổng kết được 3 nhóm quan điểm về sự kết hợp trong BL: (1) Kết hợp các phương thức dạy học; (2) Kết hợp các
phương pháp dạy học; (3) Kết hợp dạy học trực tuyến và hướng dẫn trực tiếp mặt đối mặt. Quan điểm (3) phản ánh chính xác hơn đặc điểm, thành phần của sự kết hợp và giúp phân biệt mô hình DH này với các mô hình DH khác.
Staker, H., & Horn, M. B., [107] định nghĩa: BL là một chương trình giáo dục chính quy trong đó người học học tập ít nhất một phần thông qua các nội dung và hướng dẫn được cung cấp trực tuyến với một số yếu tố kiểm soát về thời gian, địa điểm, phương pháp và tốc độ đồng thời có ít nhất một phần học tập trong lớp học truyền thống được giám sát ở xa nhà. Với giải thích rằng: "Chương trình giáo dục chính quy" để phân biệt BL với học tập trực tuyến không chính thức như HS tự chơi các trò chơi điện tử mang tính giáo dục hoặc xem các bài giảng trực tuyến bất kỳ bên ngoài chương trình chính thức; "Nội dung và hướng dẫn" để phân biệt việc học trực tuyến từ việc chỉ sử dụng các công cụ internet; Định nghĩa chuyển DH trực tuyến lên trước DH truyền thống để nhấn mạnh vai trò của nó trong định nghĩa và sự kết nối giữa các phương thức trực tiếp và trực tuyến trong một khóa học, nói cách khác những gì HS học trực tuyến cho biết những gì họ học trực tiếp và ngược lại.
Nguyễn Văn Hiền [18] có đưa ra khái niệm "Học tập hỗn hợp" để chỉ hình thức kết hợp giữa cách học truyền thống với học tập có sự hỗ trợ của công nghệ, học tập qua mạng. Theo Trần Văn Hưng [28]: DH kết hợp là sự kết hợp DH truyền thống (giáp mặt) và DH trực tuyến (qua mạng) với các phương thức kết hợp khác nhau.
Hình 1.10. Mô hình dạy học kết hợp [31] |
Có thể bạn quan tâm!
- Vận dụng mô hình Blended learning trong dạy học phần Hóa học hữu cơ lớp 11 nhằm phát triển năng lực tự học cho học sinh Trung học phổ thông - 2
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Về Vấn Đề Vận Dụng Mô Hình Blended Learning Phát Triển Năng Lực Tự Học Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông
- Một Số Lí Thuyết Nền Tảng Cho Dạy Học Phát Triển Năng Lực Học Sinh
- Một Số Phương Pháp, Kĩ Thuật Dạy Học Tích Cực Và Công Cụ Hỗ Trợ Tổ Chức Dạy Học Theo Mô Hình Blended Learning Phát Triển Năng Lực Tự Học Cho
- Thực Trạng Vấn Đề Tự Học, Phát Triển Năng Lực Tự Học Và Vận Dụng Blended Learning Trong Dạy Học Hóa Học Ở Trường Trung Học Phổ Thông
- Biện Pháp Vận Dụng Mô Hình Blended Learning Trong Dạy Học Phần Hóa Học Hữu Cơ Lớp 11 Phát Triển Năng Lực Tự Học Cho Học Sinh Trung Học Phổ Thông
Xem toàn bộ 264 trang tài liệu này.
Theo [105] một chương trình BL có thể gồm: sự kết hợp môi trường học tập trực tuyến và ngoại tuyến; kết hợp môi trường học tập cá nhân và cộng tác; kết hợp môi trường học tập có cấu trúc và không có cấu trúc; kết hợp các cách tiếp cận sư phạm (kiến tạo, hành vi, nhận thức,...) để tạo ra kết quả học tập tối ưu.
M. Carman (2005) [68] nhấn mạnh năm thành phần chính của BL gồm: (1) Hoạt động đồng bộ (Live Event) là hoạt động có sự tương tác trực tiếp trong thời gian thực giữa GV và HS, GV hướng dẫn các nội dung học tập cho tất cả HS cùng một lúc; (2) Tự học tập (Self-Paced Learning) là việc HS tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập với tốc độ, không gian và thời gian phù hợp với mỗi cá nhân; (3) Hợp tác (Collaborration) giữa HS với GV, HS với HS một cách đồng bộ hoặc không đồng bộ; (4) Đánh giá (Assessment) là yếu tố quan trọng giúp HS nhận ra được hiệu quả học tập, các hạn chế, sai sót để điều chỉnh; (5) Tài liệu hỗ trợ (Performance Support Materials) là yếu tố thúc đẩy, duy trì và chuyển giao nhiệm vụ học tập.
Như vậy, đã có nhiều quan điểm trong định nghĩa và xác định thành phần của BL. Trong luận án này, chúng tôi quan niệm: Blended learning là các mô hình dạy học có sự kết hợp thống nhất và bổ sung giữa phương thức dạy học trực tuyến qua mạng internet và dạy học trực tiếp trên lớp học nhằm tạo điều kiện tốt cho HS đạt được các mục tiêu học tập đề ra khi chiếm lĩnh cùng một nội dung trong chương trình học tập. Sự kết hợp 2 phương thức dạy học trên theo trình tự và tỉ lệ khác nhau phản ánh mối quan hệ bên trong có tính quy luật giữa mục tiêu - nội dung - phương pháp dạy học sẽ tạo nên các mô hình BL khác nhau.
1.4.2. Đặc điểm, vai trò và các cấp độ của blended learning
1.4.2.1. Đặc điểm của blended learning
BL mang các đặc điểm phản ánh giá trị giáo dục của thế kỷ XXI đó là:
- Mở và linh hoạt về không gian, thời gian [20]: hoạt động học được diễn ra mọi lúc, mọi nơi phù hợp với từng nội dung, khả năng, nhu cầu và hứng thú học tập của cá nhân HS. Hoạt động dạy của GV có thể diễn ra ngoài giờ lên lớp.
- Dạy TH và định hướng kết quả đầu ra: hoạt động học là TH với vai trò chủ đạo của HS dưới sự hướng dẫn của GV, HS phải tích cực tham gia vào thực hiện trọn vẹn hoạt động học trên lớp “thật” và trên lớp học “ảo”.
- Dạy học dựa trên nền tảng công nghệ: sử dụng các phương pháp, phương tiện công nghệ hiện đại, khai thác tối ưu tiện ích của các phương tiện (đặc biệt là máy tính và internet) trong DH. Kết quả là HS không chỉ tiếp thu các tri thức hóa học mà còn rèn luyện được các kỹ năng tiếp cận và làm chủ công nghệ [20].
- Dạy học kết nối: Trong DH có sự kết nối chặt chẽ các mục tiêu (kiến thức, kĩ
năng và thái độ), các hoạt động, thao tác và NL, các nguồn lực hỗ trợ học tập bên ngoài.
- Dạy học tương tác: HS có cơ hội tiếp cận, tương tác với nhiều nguồn học liệu trên mạng (ảnh, video, mô phỏng...), trên lớp (sách, thiết bị TN, mô hình...), với bạn học, với GV.
1.4.2.2. Vai trò của blended learning
Vận dụng BL trong DH ở trường phổ thông đem lại một số lợi ích sau:
- Góp phần đổi mới nội dung, hình thức tổ chức DH: nội dung DH phong phú được thể hiện qua các học liệu dưới dạng video, mô phỏng, bài giảng điện tử,... kích thích hứng thú, động cơ học tập của HS, đồng thời là hình thức DH mới phát triển cùng với sự phát triển của internet, góp phần làm đa dạng hình thức tổ chức DH [20].
- Tạo cơ hội để HS làm việc nhiều hơn [58]: HS TH ở nhà trước khi lên lớp qua các nguồn học liệu có trên mạng và tương tác trực tuyến với các thành viên khác, trên lớp HS sẽ có nhiều thời gian để báo cáo, thảo luận kết quả học tập, làm thí nghiệm, bài tập, chơi trò chơi củng cố kiến thức. Điều này cũng tạo điều kiện thuận lợi để GV áp dụng các PPDH tích cực yêu cầu nhiều thời gian. Từ đó, nâng cao kết quả học tập.
- Phát triển NL của HS: HS phải tự nghiên cứu, thảo luận nhóm thường xuyên qua internet và trên lớp học để hoàn thành nhiệm vụ được giao sẽ tạo điều kiện để phát triển NL HS, đặc biệt là NL tự học, NL tin học, NL hợp tác, NL giải quyết vấn đề và sáng tạo [105].
1.4.2.3. Các cấp độ của blended learning
BL có nhiều cấp độ khác nhau tùy thuộc cách tiếp cận khác nhau. Dựa vào nội dung, BL xảy ra ở 4 cấp độ [75]: (1) Kết hợp ở cấp độ hoạt động (Activity); (2) Kết hợp ở cấp độ khóa học (Course level); (3) Kết hợp ở cấp độ chương trình (Program level) và (4) Kết hợp ở cấp độ nhà trường/thể chế (Institutional level) (hình 1.11).
Hình 1.11. Các cấp độ của BL [75]
Với sự quan tâm về hiệu quả học tập các GV thường quan tâm đến các mô hình ở cấp độ khóa học và hoạt động còn các nhà quản lý với sự quan tâm về chi phí và khả năng mở rộng sự tiếp cận đối với nhiều đối tượng khác nhau sẽ quan tâm hơn ở cấp độ chương trình và thể chế. Trong luận án này chúng tôi cũng sẽ tập trung nghiên cứu về BL ở cấp độ hoạt động và khóa học.
Ngoài ra, dựa trên vai trò của các thành phần, Alammary và cộng sự [61] đưa ra 3 mức độ kết hợp BL là kết hợp ở mức độ thấp: bổ sung một số các hoạt động theo dạng thức kết hợp đối với khóa học có sẵn ở dạng truyền thống (mặt giáp mặt); kết hợp ở mức độ vừa: thay thế một số các hoạt động trong khóa học có sẵn ở dạng truyền thống (mặt giáp mặt) bằng dạng thức kết hợp; kết hợp ở mức độ cao: thiết kế lại toàn bộ khóa học theo dạng thức kết hợp.
1.4.3. Ưu và nhược điểm của blended learning
Ưu điểm của BL đã được chỉ ra trong nghiên cứu của nhiều tác giả. Graham C.
[75] đã đưa ra ba lí do chính để lựa chọn BL trong các thiết kế DH là (1) hoàn thiện tính sư phạm, (2) tăng tính truy cập và sự linh hoạt, (3) hiệu quả trong việc tiết kiệm chi phí khi tái sử dụng nguồn tài nguyên. Scardamalia [100] chỉ ra ưu điểm của BL là gia tăng tính sáng tạo, khả năng tự giác học tập và tạo động lực, thích thú. Moskal, Dziuban, và Hartman [90] cho rằng BL gia tăng cơ hội học tập, gia tăng tính tương tác nhiều hơn là hoạt động truyền thống, tính tinh gọn trong công tác quản lí hành chính hoạt động đào tạo do áp dụng công nghệ.
Đối với bậc phổ thông, việc vận dụng BL trong DH thể hiện một số ưu điểm sau:
(1) Tăng cơ hội cho các hoạt động học tập diễn ra nhiều hơn, đa dạng hơn, kết hợp chặt chẽ hơn và đạt hiệu quả cao hơn. GV có thể thiết kế đa dạng các hoạt động học tập phù hợp với từng không gian và sẽ có thêm nhiều thời gian trên lớp để tổ chức các hoạt động học theo PPDH tích cực (hợp tác, làm thí nghiệm, vận dụng kiến thức,… ) nhằm phát triển tư duy bậc cao cho HS. HS cũng dễ dàng chuyển đổi các dạng học tương tác và hoạt động độc lập, sẵn sàng tập trung vào các hoạt động học cá nhân để đạt được hiệu quả cao nhất.
(2) Mang lại những cách học trải nghiệm mới cho HS mà nếu không có sự hỗ trợ của công nghệ thì không thể thực hiện được, đáp ứng đa dạng các phong cách, sở thích và khả năng của HS, kích thích hứng thú học tập của các em.
(3) Tạo điều kiện để HS sử dụng đa phương tiện và sáng tạo hơn trong trình bày nội dung. HS sẽ có nhiều kinh nghiệm và kĩ năng sử dụng công nghệ trong học tập.
(4) Cho phép HS kiểm soát được tốc độ, thời gian, địa điểm khi học tập. HS có thể truy cập tài liệu học tập ở bất cứ đâu, khi nào theo tốc độ học của mình, tránh sự nhàm chán khi chỉ học trên lớp [99], [115].
(5) Tăng cường số lượng, chất lượng tương tác giữa GV với HS, HS với HS qua các kênh giao tiếp thuận tiện và nhanh chóng. BL còn tăng cường trách nhiệm và kiểm soát của phụ huynh trong việc TH của HS. Phụ huynh có thể truy cập vào cùng nguồn học tập giống như các con để giúp con học và nghiên cứu ngoài giờ lên lớp.
(6) Tăng cơ hội HS tự học và tự kiểm tra đánh giá trước, trong, sau khi học.
Như vậy, ưu điểm nổi bật của BL là cung cấp cho HS cơ hội để học tập độc lập hơn, năng động và tương tác nhiều hơn, là bước tiến chắc chắn cho việc học tập suốt đời. Môi trường BL cũng giúp phụ huynh quan tâm hơn tới việc học của con em mình. Tuy nhiên, BL đòi hỏi điều kiện công cụ và kĩ thuật nhất định. HS phải có đầy đủ công cụ và trình độ tin học nhất định để truy cập vào các nền tảng học tập, GV cũng cần có những kĩ năng CNTT căn bản để thiết kế công cụ và tổ chức bài dạy, cần đầu tư nhiều công sức cho việc chuẩn bị ban đầu. Ngoài ra, BL cũng đặt ra thách thức về các biện pháp quản lí hoạt động TH của HS trong môi trường trực tuyến, quản lí sở hữu trí tuệ của bài giảng, an ninh và quyền riêng tư. Đó là những vấn đề mấu chốt mà GV cần nhận thức được khi tiến hành thiết kế một hệ thống BL.
1.4.4. Các mô hình blended learning
Mô hình là các thiết kế dạy học trong các bối cảnh nhất định. Hiện nay, có nhiều mô hình BL khác nhau. Theo [79], [80] đưa ra 6 mô hình:
- Mô hình giáp mặt/trực tiếp là chủ đạo (Face-to-Face Driver): quá trình DH chủ yếu được diễn ra trên lớp học, có tích hợp, bổ sung hoặc trợ giúp bởi yếu tố của DH điện tử, bài giảng trực tuyến hoặc các nội dung được tìm kiếm trên internet.
- Mô hình xoay vòng (Rotation): HS luân chuyển giữa học trên lớp và các nội dung học ngoài giờ lên lớp trên nền tảng công nghệ.
- Mô hình linh hoạt (Flex): các hoạt động dạy học dựa trên nền tảng khóa học trực tuyến kết hợp với hỗ trợ trực tiếp của GV trên lớp.
- Mô hình kết hợp đặc thù (Online Lab): các hoạt động dạy học theo môn/chủ
đề/nội dung được triển khai trong phòng máy tính chuyên biệt.
- Mô hình kết hợp tự do (Self-Blend): HS tự lựa chọn các khóa học trực tuyến để mở rộng, nâng cao trình độ, kiến thức theo hướng của chương trình nhà trường.
- Mô hình trực tuyến toàn phần (Online Driver): các hoạt động DH được thiết kế và triển khai dựa trên các nền tảng công nghệ trực tuyến.
Staker, H., & Horn, M. B. [107] đề xuất 4 mô hình BL được mô tả trong hình 1.12.
Hình 1.12. Các mô hình blended learning [107]
a. Mô hình Xoay vòng (Rotation model): Khi học tâp một nội dung/chủ đề, HS luân chuyển qua các phương thức học tập trong đó có một phương thức là trực tuyến. Các phương thức khác có thể là hoạt động thảo luận nhóm, hướng dẫn nhóm hoặc dạy kèm cá nhân, làm việc với tài liệu, giải bài tập, làm thí nghiệm,… . Mô hình này có 4 mô hình nhỏ hơn:
- Trạm xoay vòng: HS xoay vòng theo lịch trình cố định qua các trạm học tập trong không gian lớp học tương ứng với các phương thức học tập khác nhau (ít nhất một trạm học trực tuyến) và HS phải luân chuyển qua tất cả các trạm trong lịch trình.
- Phòng học chuyên biệt xoay vòng: HS luân chuyển theo lịch trình cố định hoặc tùy theo quyết định của GV giữa các phòng khác nhau trong đó có một phòng học trực tuyến. Mô hình này khác với mô hình trạm xoay vòng ở chỗ HS luân chuyển giữa các phòng học khác nhau thay vì ở trong không gian một phòng học hay nói cách khác HS học tập ở trạm trực tuyến trong phòng máy tính chuyên biệt.
- Lớp học đảo ngược: HS luân chuyển theo lịch trình cố định với cùng một nội