Vị Trí, Vai Trò Của Người Làm Chứng Trong Tố Tụng Hình Sự

"Người bào chữa của bị can, bị cáo có nghĩa vụ làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và có nghĩa vụ không được làm tiết lộ bí mật mà họ biết được do tham gia bào chữa" [31]. Do đó, nếu làm chứng, họ có thể vi phạm nghĩa vụ, không làm đúng thỏa thuận với bị can, bị cáo.

"Đối với những trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo đúng đắn đối với những tình tiết về vụ án của người làm chứng hoặc người bị hại, cần xác định tình trạng tâm thần thì bắt buộc phải trưng cầu giám định" [31]. Quy định này nhằm xác định khả năng nhận thức của người làm chứng, xác định lời khai của họ có giá trị pháp lý hay không để từ đó cơ quan tiến hành tố tụng quyết định có hay không việc triệu tập họ tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng trong vụ án.

Để việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ từ lời khai của người làm chứng được khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Khi được các cơ quan tiến hành tố tụng triệu tập đến để lấy lời khai, người làm chứng có nghĩa vụ phải có mặt và phải khai trung thực những tình tiết mà họ biết về vụ án; nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại; quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi của những người tiến hành tố tụng đặt ra về các tình tiết khác của vụ án. Quyền và nghĩa vụ cụ thể của người làm chứng được quy định tại Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

1.1.2.2. Vị trí, vai trò của người làm chứng trong tố tụng hình sự

Để giải quyết một vụ án hình sự, theo nguyên tắc công tố, pháp luật tố tụng hình sự giao cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng nhiệm vụ điều tra, truy tố, xét xử. Việc giải quyết vụ án hình sự còn có cả sự tham gia của những người có liên quan đến vụ án (người tham gia tố tụng) nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho những người tham gia tố tụng

(người bị hại, người có lợi ích liên quan). Trong quá trình tham gia tố tụng, tư cách pháp lý của những người này được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 xác định là những người tham gia tố tụng, bao gồm: Người bị tạm giữ; bị can; bị cáo; người bị hại; người làm chứng; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án; người bào chữa (luật sư; bào chữa viên nhân dân; người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo); người bảo vệ quyền lợi của đương sự; người giám định; người phiên dịch.

Như vậy, trong tố tụng hình sự, người làm chứng được xác định là người tham gia tố tụng. Lời khai của Người làm chứng vẫn là một trong những nguồn chứng cứ không thể thiếu được trong quá trình làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án: Ở Liên bang Nga khi thăm dò ý kiến của các thẩm phán về việc chứng cứ nào mà họ cho là quan trọng nhất trong hoạt động xét xử thì kết quả trả lời cho thấy: "Lời khai người làm chứng chiếm vị trí số một, thứ hai là kết luận giám định và thứ ba là lời khai người bị hại" [24, tr. 1]. Điều này có thể hiểu được bởi lẽ Người làm chứng khác với người bị hại. Người bị hại là nạn nhân trực tiếp của hành vi tội phạm nên lời khai của họ có thể phản ánh đậm nét hơn những đánh giá, cảm xúc chủ quan của họ về các tình tiết của vụ án so với lời khai của người làm chứng.

Với tư cách là người tham gia tố tụng, người làm chứng được pháp luật tố tụng hình sự quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý tại Điều 55 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 như sau:

- Người làm chứng có quyền:

Yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật [31].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

- Người làm chứng có nghĩa vụ:

Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải; khai trung thực tất cả những tình tiết mà mình biết về vụ án cho cơ quan có thẩm quyền. Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc khai báo mà không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của BLHS năm 1999, khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự năm 1999 [31].

Bảo vệ quyền con người của người làm chứng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam - 3

Lời khai của người làm chứng là chứng cứ khi được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định, được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án.

Như vậy, người làm chứng là người biết được các tình tiết liên quan đến vụ án và tham gia tố tụng nhằm xác định công lý mà không hề có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, pháp luật tố tụng hình sự nước ta quy định nghĩa vụ và trách nhiệm của người làm chứng rất nặng nề, thậm chí có cả trách nhiệm hình sự. Đồng thời, pháp luật cũng quy định các quyền cụ thể để bảo đảm cho người làm chứng thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ tố tụng quy định.

1.1.2.3. Quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người làm chứng

Ở Việt Nam, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp: "Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể,

được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm..." [30] và được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật khác.

Tuy nhiên, trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có hiệu lực, trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam chưa có quy định nào về bảo vệ người làm chứng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự cũng như chưa có một chế định pháp luật đặc thù riêng về bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản của người làm chứng trong tố tụng hình sự.

Cùng với sự phát triển của kỹ thuật lập pháp và sự nhận thức đầy đủ về vai trò quan trọng của người làm chứng trong quá trình tham gia giải quyết vụ án hình sự, cũng như các nguy cơ bị xâm hại mà họ bị gánh chịu khi tham gia tố tụng, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã có một số bổ sung về quyền của người làm chứng so với Bộ luật tố tụng hình sự 1988 như:

Quyền yêu cầu cơ quan triệu tập họ bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp của mình; quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan có thẩm quyển tiến hành tố tụng, quyền được thanh toán chi phí đi lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật.

Đây là quy định mới của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, là tín hiệu đáng mừng về sự thay đổi tư duy lập pháp về người làm chứng, một mặt khẳng định quyền được bảo vệ của những người này, mặt khác quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người làm chứng cũng như người thân thích của họ.

Có thể nói quyền được bảo vệ của người làm chứng là một yêu cầu tất yếu khách quan bởi lẽ quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm và tài sản hợp pháp của công dân là vấn đề cốt lõi, được quy định trong Hiến pháp và cụ thể hóa bằng các chế định pháp luật hình sự, tố tụng

hình sự ở mỗi quốc gia. Mỗi công dân trong xã hội đương nhiên có quyền được bảo vệ từ phía nhà nước trước nguy cơ xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Người làm chứng là công dân có vai trò đặc biệt khi tham gia vụ án hình sự với tư cách là người tham gia tố tụng, lời khai của họ mang ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án và giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết án một cách khách quan, nhanh chóng và chính xác. Vì vậy, họ có nguy cơ bị người phạm tội ngăn cản và trả thù. Khả năng người làm chứng bị xâm hại tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản cao nên Nhà nước cần phải có cơ chế đặc biệt để bảo vệ và đảm bảo quyền con người cho họ.

Hơn nữa, xuất phát từ vai trò của người làm chứng, đặc biệt lời khai của họ là chứng cứ không thể thiếu trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng muốn thu thập được đầy đủ các thông tin từ người làm chứng, sử dụng chúng để làm chứng cứ chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các vấn khác cần chứng minh trong vụ án hình sự thì điều kiện tiên quyết là phải đảm bảo an toàn cho họ để họ có thể tham gia đầy đủ các giai đoạn tố tụng và tạo điều kiện để họ có thể cung cấp thông tin một cách đầy đủ và xác thực. Thực tiễn cho thấy, trong các vụ án hình sự lời khai của người làm chứng có giá trị chứng minh càng lớn thì nguy cơ bị xâm hại đến thể chất, tinh thần và tài sản của họ càng cao, nhất là các vụ án phạm tội có tổ chức, bọn tội phạm là những tên lưu manh, côn đồ... do đó cần phải có những cơ chế đặc biệt để bảo vệ họ trước các nguy cơ bị xâm hại để họ yên tâm và có thái độ hợp tác tích cực với các cơ quan tiến hành tố tụng.‌


1.2. CÔNG TÁC BẢO VỆ NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ


1.2.1. Khái niệm bảo vệ người làm chứng và ý nghĩa của việc bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự

Từ trước đến nay, do chưa được giải quyết một cách toàn diện và có hệ thống, đồng bộ và thỏa đáng những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con

người của người làm chứng nên trong khoa học pháp lý nói chung và chuyên ngành khoa học pháp lý về tố tụng hình sự nói riêng của Việt Nam vẫn chưa có một công trình khoa học nào xây dựng khái niệm về vấn đề này. Từ thực tiễn của các quốc gia hiện đại trên thế giới trong việc bảo vệ quyền con người của người làm chứng bằng pháp luật tố tụng hình sự, đồng thời từ sự phân tích các quy định của pháp luật trong lĩnh vực tố tụng hình sự có liên quan đến việc bảo vệ quyền con người của người làm chứng và đặc biệt là từ quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về người làm chứng, có thể đưa ra khái niệm bảo vệ người làm chứng như sau: Bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự là việc Nhà nước bằng quyền lực của mình quy định và bảo đảm để các quyền con người của người làm chứng không bị xâm phạm và được thực thi trong đời sống, đảm bảo cho người làm chứng thực hiện việc tham gia tố tụng một cách tự do, góp phần giải quyết vụ án một cách chính xác, khách quan, nhanh chóng, công minh và đúng pháp luật.

Nghiên cứu việc bảo vệ người làm chứng có ý nghĩa to lớn về chính trị xã hội cũng như pháp lý. Về chính trị xã hội, bảo vệ người làm chứng tức là bảo vệ quyền con người nói chung trong xã hội. Bảo vệ người làm chứng thể hiện sự quyết tâm của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ quyền con người trong các lĩnh vực xã hội, xây dựng lòng tin về tính tích cực của công dân trong lĩnh vực này. Về pháp lý, việc bảo vệ người làm chứng vừa bảo đảm nguyên tắc công bằng trong hoạt động tố tụng hình sự, thể hiện bản chất dân chủ của tố tụng hình sự xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ hiện đại, góp phần quan trọng trong việc khắc phục các sai sót trong quá trình tiến hành tố tụng, giảm thiểu các án oan sai. Từ trước đến nay, việc bảo vệ người làm chứng mặc dù đã được ghi nhận trong luật thực định nhưng còn mang tính hình thức cho nên không được áp dụng trong thực tiễn dẫn đến việc người làm chứng tham gia phiên tòa rất hạn chế, thậm chí là rất ít bởi lẽ chưa có cơ chế cụ thể để bảo vệ họ, việc họ tham gia phiên tòa sẽ gây rất nhiều khó khăn và phiền

phức cho họ, thậm chí là bị đe dọa, bị trả thù vì việc làm nhân chứng trong vụ án. Điều đó dẫn đến số lượng án có nhân chứng đáng lẽ ra sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng và chính xác thì ngược lại gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án do vậy sự đảm bảo của Nhà nước về an toàn tính mạng, sức khỏe, danh dự, tài sản cho người làm chứng và người thân của họ sẽ giúp họ tự nguyện hợp tác, tham gia tố tụng với tư cách là nhân chứng trong vụ án một cách tích cực.

1.2.2. Cơ chế, các hình thức, biện pháp bảo vệ người làm chứng trong tố tụng hình sự

Trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ XX, hoạt động xét xử ở nhiều nước đã gặp phải trở ngại to lớn là sự tác động của thế giới tội phạm đối với những nạn nhân của chúng và người làm chứng. Vấn đề bảo vệ nhân chứng được xem như là một trong những vấn đề có tính toàn cầu trong lĩnh vực đấu tranh chống tội phạm. Sự bảo đảm của nhà nước về an toàn tính mạng, sức khỏe, tài sản cho người làm chứng và cho người thân của họ có ảnh hưởng lớn đến tính xác thực trong lời khai của người làm chứng, tính tích cực của họ khi tham gia trong vụ án. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi phải hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự ở mỗi quốc gia.

Cùng với quá trình mở rộng những bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, chế định người làm chứng cũng có những vận động thay đổi theo hướng nhân đạo hóa mối quan hệ giữa nhà nước với người làm chứng, mở rộng quyền của người làm chứng và những bảo đảm tố tụng cho các quyền đó. Thực tiễn quốc tế về đấu tranh chống tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức cho thấy cuộc đấu tranh này chỉ thu được kết quả mong đợi ở những quốc gia xây dựng được nền tảng pháp lý chặt chẽ trong việc bảo vệ người làm chứng.

Trong quá trình giải quyết vu ̣án hình sự , những thông tin do người làm chứng cung cấp có ý nghĩa hết sức quan trọng , góp phần giúp các cơ quan

chứ c năng phát hiên

tôi

pham

và giải quyết đúng đắn , triêṭ để vu ̣án hình sự .

Tuy nhiên, thưc

tế cho thấy trong nhiều vu ̣án hình sự , ngườ i làm chứ ng tỏ ra

e ngaị , bất hơp

tác hoăc

hơp

tác không tích cưc

́i các cơ quan có thẩm

quyền. Căn nguyên của tình traṇ g trên trước hết là do những thiếu sót , bất câp

của chế điṇ h pháp lý hiên hành về bảo vê ̣người làm chứng, trong đó chủ yêú la

chưa có các biên

pháp tối ưu để thưc

hiên

tốt công tác bảo vê ̣người làm chứ n.g


̀ thưc

tiên

t ham khảo pháp luật tố tụng hình sự của một số nước

trên thế giới có thể thấy những biện pháp bảo vệ Ngườ i làm chứ ng rất đa dạng và chúng có thể chia thành những nhóm sau đây:

a) Những biện pháp chung - là những biện pháp có thể áp dụng trong quá trình tiến hành điều tra xét xử vụ án cũng như ngoài phạm vi vụ án, áp dụng với người làm chứ ng cũng như với người thân thích của họ:

- Bố trí người bảo vệ người làm chứ ng , người thân của họ trong suốt thời gian điều tra, xét xử vụ án hay trong một khoảng thời gian nhất định. Cảnh sát tư pháp sẽ đảm nhiệm việc bảo vệ này.

- Trang bị vũ khí, công cụ bảo vệ cá nhân cho người làm chứ ng hay người thân của họ. Biện pháp này đòi hỏi nhà nước phải có luật quy định về việc sử dụng vũ khí vì mục đích dân sự.

- Sơ tán tạm thời người làm chứ ng , người thân của họ đến địa điểm an toàn, địa chỉ của những trung tâm này được giữ kín. Trong thời gian ở trung tâm này họ được giúp đỡ về tâm lý và pháp lý cho việc chuẩn bị tham gia phiên tòa.

- Thay đổi nơi cư trú, nơi làm việc hoặc học tập của người làm chứ ng và người thân của họ. Biện pháp này rất tốn kém về tài chính và khi áp dụng nó không được gây bất kỳ thiệt hại nào về tài chính, tài sản, nhà cửa, về quyền lao động, học tập hay hưu trí cho đối tượng áp dụng đồng thời phải bảo đảm

cho họ có thể sinh sống, làm việc, học tập bình thường trong điều kiện mới.

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 16/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí