Tăng Cường Vai Trò Tham Gia Và Nâng Cao Chất Lượng Của Người Bào Chữa Trong Quá Trình Giải Quyết Vụ Án Hình Sự

4) Xây dựng cơ chế hoàn thiện pháp luật về bồi thường cho người bị oan, sai; v.v...

3.2.2.3. Tăng cường vai trò tham gia và nâng cao chất lượng của người bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự

Việc phát huy vai trò của người bào chữa, luật sư trong việc tham gia quá trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là tham gia tranh luận dân chủ tại phiên tòa, cũng như việc hoàn thiện về tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của Luật sư ở Việt Nam hiện nay là xuất phát từ nhu cầu tất yếu của cải cách hệ thống tư pháp trong nhiệm vụ đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Như đã đề cập, hiếm có một Nghị quyết nào lại đề cập một cách mạnh mẽ đến việc tăng cường vai trò của Luật sư, người bào chữa trong tố tụng hình sự như Nghị quyết số 08/NQ-TW của Bộ Chính trị. Nghị quyết yêu cầu Kiểm sát viên tại phiên tòa phải "bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…", yêu cầu Tòa án "việc phán quyết phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục cao", đồng thời nhấn mạnh "…các cơ quan tư pháp có trách nhiệm tạo điều kiện để luật sư tham gia vào quá trình tố tụng: tham gia hỏi cung bị can, nghiên cứu hồ sơ vụ án, tranh luận dân chủ tại phiên tòa…". Tuy nhiên, thời gian vừa qua, trong giới luật sư cũng như trong dư luận xã hội, người ta nói nhiều về những khó khăn của luật sư khi tham gia tố tụng hình sự. Không ít điều tra viên quan niệm "sự tham gia của luật sư - người bào chữa là sự cản trở hoạt động điều tra, vì vậy hầu như không thể tiếp xúc với bị can trong trại giam khi hoạt động điều tra chưa kết thúc" [37, tr. 115]. Và khi tại phiên tòa xét xử, có trường hợp có những luật sư yêu cầu chủ tọa

phiên tòa hoãn phiên tòa, triệu tập nhân chứng mới (những nhân chứng này không được lấy lời khai trong quá trình điều tra, tức là không có lời khai trong hồ sơ vụ án), hoặc yêu cầu chủ tọa phiên tòa công bố tài liệu này, tài liệu kia trong hồ sơ. "Những yêu cầu, đòi hỏi này của luật sư là không thể chấp nhận được vì đáp ứng như vậy sẽ ảnh hưởng đến quá trình xét xử, và nếu chấp nhận thì không ít trường hợp luật sư sẽ "làm rối rắm, phức tạp thêm", mà không chắc đã làm sáng tỏ thêm điều gì liên quan đến vụ án" [62, tr. 1-2]. Song theo chúng tôi ở đây luật sư hoàn toàn có quyền chủ động thu thập tài liệu, chứng cứ, hoặc chủ động chuẩn bị người làm chứng tại phiên tòa mà không cần thiết phải buộc họ công bố cho Kiểm sát viên hoặc Hội đồng xét xử biết trước khi tranh luận. Bởi lẽ, theo quy định của Điều 36 BLTTHS thì "Người bào chữa có nghĩa vụ sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị cáo v.v...". Do đó, đối với những tình tiết luật sư, người bào chữa đưa ra tại phiên tòa là những tình tiết mới phát sinh ngoài hồ sơ và pháp luật không cấm thì Hội đồng xét xử phải chấp nhận và nếu chưa làm rò được tại phiên tòa thì phải hoãn phiên tòa và yêu cầu điều tra bổ sung và có như vậy, việc tranh luận của các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng mới đảm bảo thực sự dân chủ, khách quan và công bằng.

Ngoài ra, để tránh oan, sai một vấn đề cũng lưu ý là cần coi trọng những ý kiến của luật sư bào chữa trong các phiên tòa xét xử hình sự, "đặc biệt là các kiến nghị của luật sư về việc kháng nghị hoặc xem xét vụ án theo các trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm", đồng thời ý kiến của luật sư "chỉ có thể bị bác bỏ bởi các lập luận có căn cứ pháp lý của bên kia, tránh tình trạng các kiến nghị của luật sư được các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự nhận, nhưng chúng lại được "trả lời" bằng sự im lặng hay lãng quên" [37, tr. 111]. Do đó, để tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án được công bằng, có căn cứ và đúng pháp luật, bảo đảm sự tham gia của người bào chữa, luật sư, theo chúng tôi cần có những giải pháp cụ thể như sau:

Một là, cần thay đổi nhận thức về địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự. Luật sư bào chữa tham gia quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo nên họ phải có nghĩa vụ chứng minh một cách trung thực, thiện chí cho lợi ích của người được bảo vệ chứ không phải có mặt tại phiên tòa cho đúng thủ tục tố tụng. Luật sư bào chữa là chủ thể chứng minh gỡ tội trong quá trình tố tụng, đặc biệt là tại phiên tòa nên họ phải có địa vị bình đẳng như bên buộc tội tại phiên tòa. Chẳng hạn, BLTTHS năm 2003 chỉ quy định quyền của người bào chữa trong việc thu thập chứng cứ, chứ chưa quy định rò và cụ thể về phương tiện và biện pháp để họ thực hiện quyền đó. Cho nên, quy định này cần được bổ sung để bảo đảm sự bình đẳng của các bên trong tố tụng hình sự.

Hai là, về mặt tổ chức và hoạt động nghề nghiệp, cần nâng cao chất lượng chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp của Luật sư cho tương xứng với vị trí, vai trò và các giá trị xã hội cao quý mà hoạt động nghề nghiệp luật sư mang lại cho sự phát triển xã hội dân chủ, văn minh, đáp ứng được yêu cầu công cuộc đổi mới nói chung, cải cách tư pháp nói riêng. Do đó, ngoài các kiến thức pháp lý, luật sư, người bào chữa cần phải được đào tạo chính quy về nghiệp vụ bào chữa (và các nghiệp vụ khác như tư vấn, đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng...). Ngoài ra, chương trình đào tạo luật sư nhất thiết phải có các môn học trực tiếp về kỹ năng trình bày, xét hỏi, hùng biện....

Ba là, tăng cường quy định về thù lao đối với Luật sư, đặc biệt là các vụ án bào chữa theo chỉ định, liên quan đến các vụ án nghiêm trọng, phức tạp có khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo đến chung thân hoặc tử hình, hay bị cáo có nhược điểm về thể chất hay tinh thần, nếu không dễ dẫn đến họ chỉ tham gia cho xong nghĩa vụ, mà ít quan tâm đến việc phán quyết của Hội đồng xét xử như vậy đã đúng chưa, chứng cứ thế nào, quá trình chứng minh ra sao... Cần gắn trách nhiệm của họ hơn nữa trong bất kỳ vụ án nào.

Bốn là, cần nâng cao đạo đức nghề nghiệp của Luật sư, vì pháp chế xã hội chủ nghĩa, vì công lý, "Luật sư ngoài các phẩm chất chung là Chân, Thiện,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Mỹ, còn phải là người có khối óc thông minh, tấm lòng trong sáng, dũng cảm, biết lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm cơ sở hoạt động mới xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh của xã hội"

Năm là, cần quy định chặt chẽ hơn trong quy định về tiêu chuẩn, trong khâu tuyển chọn, tập sự hành nghề Luật sư, kiểm tra kết quả tập sự, cấp chứng chỉ hành nghề và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, để khi tham gia tố tụng hình sự giải quyết vụ án mới có đủ chuyên môn, kiến thức để tìm ra những sai phạm (nếu có) của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, nhằm bảo vệ sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ lẽ phải, công lý và công bằng xã hội.

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 24


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Qua nghiên cứu nội dung Chương 3 "Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chứng cứ trước yêu cầu cải cách tư pháp" cho phép chúng tôi đưa ra một số kết luận như sau:

1. Việc bảo đảm việc nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ là một yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân mà các văn kiện, nghị quyết của Đảng đã chỉ rò, đặc biệt, cần cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan, sai.

2. Để thực hiện tốt nhiệm vụ đã nêu, một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay là nâng cao hơn nữa tính tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử ở nước ta. Quá trình chứng minh trong vụ án

hình sự ở các giai đoạn điều tra, truy tố là tiền đề tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chứng minh tại phiên tòa với sự tham gia đầy đủ của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Đây là cuộc điều tra công khai giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình tố tụng. Vì vậy, việc nâng cao tính tranh tụng tại các phiên tòa hình sự không thể tách rời với việc nâng cao hiệu quả hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng hình sự.

3. Thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ và hoạt động chứng minh các vụ án hình sự, bên cạnh những mặt được đã nêu trong Chương 2, cũng có nhiều tồn tại, thiếu sót và xảy ra theo chiều dài của quá trình tố tụng và ở tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Thực trạng cho thấy, đã có nhiều vụ án đã vi phạm nghiêm trọng trong việc đánh giá chứng cứ, nguồn chứng cứ, vi phạm thủ tục tố tụng trong quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ; việc điều tra còn phiến diện, không khách quan; đánh giá không toàn diện các chứng cứ, tình tiết về vụ án; nhận thức và áp dụng không đúng và đầy đủ các quy định của BLHS, BLTTHS... trong quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ về vụ án dẫn đến xử lý oan, sai, không bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân hoặc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Chính vì vậy, cần phải hoàn thiện pháp luật và có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chứng cứ, chứng minh trong vụ án hình sự nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại và thiếu sót này.

KẾT LUẬN


Trên cơ sở nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ luật học "Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chế định chứng cứ trong luật tố tụng hình sự Việt Nam", tác giả đưa ra một số kết luận chung dưới đây:

1. Chứng cứ là phương tiện để chứng minh tội phạm, người phạm tội và dùng để xác định những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, cho nên nó xuất hiện cùng với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Trong các xã hội có chế độ chính trị khác nhau, có những quan niệm về chứng cứ khác nhau và những quy định của pháp luật về thu thập, kiểm tra và đánh giá để sử dụng chứng cứ cũng khác nhau.

2. Nghiên cứu lịch sử pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chứng cứ cho thấy: khái niệm chứng cứ và nguồn chứng cứ có sự hình thành và phát triển gắn với sự phát triển của hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật tố tụng hình sự nói riêng và luôn luôn song hành cùng với cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong các giai đoạn của lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.

3. Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự của một số nước Liên bang Nga, Trung Quốc, Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Bungari, Rumani v.v... cho thấy: pháp luật tố tụng hình sự các nước đó có điểm chung trong tương quan với pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về khái niệm chứng cứ, phân loại chứng cứ, các loại nguồn chứng cứ v.v... từ đó làm tư liệu quý báu để các nhà làm luật nước ta tham khảo trong quá trình sửa đổi, bổ sung BLTTHS hiện hành về chứng cứ.

4. Khái niệm chứng cứ là một trong những khái niệm cơ bản của khoa học luật tố tụng hình sự nói chung, lý luận về chứng cứ nói riêng và đã được cụ thể hóa trong BLTTHS năm 2003 hiện hành, làm phương tiện để chứng minh tội phạm và người phạm tội, đồng thời được dùng để xác định những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.

5. Thực tiễn cho thấy, kể từ khi BLTTHS năm 2003 có hiệu lực cho đến nay, việc áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về chứng cứ để giải quyết các vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng đều bảo đảm xác định đủ và đúng các đối tượng cần chứng minh trong vụ án hình sự, việc xác định nguồn chứng cứ, các thuộc tính của chứng cứ và tuân thủ đúng các nguyên tắc, trình tự của BLTTHS về thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, qua đó góp phần phát hiện tội phạm, xác định đúng người phạm tội, nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, đem lại công lý, công bằng xã hội, cũng như minh oan cho ngời vô tội. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, kết quả đạt được trong thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ, công tác này còn gặp nhiều tồn tại, thiếu sót trong hoạt động chứng minh của các CQĐT, VKS và Tòa án, cũng như trong việc áp dụng những quy định khác về chứng cứ của các cơ quan này. Tất cả những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình chứng minh trong vụ án hình sự, làm giảm hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, chưa bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của tổ chức và của công dân, làm ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

6. Từ việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn và chỉ ra các nguyên nhân khách quan và chủ quan cơ bản, luận án đã chỉ ra sự cần thiết của việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ là một yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện đúng đắn, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân hiện nay.

7. Một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay là nâng cao hơn nữa tính tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử ở nước ta, bảo đảm việc đánh giá chứng cứ được khách quan và toàn diện. Đây là cuộc điều tra công khai giữ vai trò quyết

định đối với toàn bộ quá trình tố tụng. Vì vậy, việc nâng cao tính tranh tụng tại các phiên tòa hình sự không thể tách rời với việc nâng cao hiệu quả hoạt động chứng minh và làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.

8. Từ thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự ở Việt Nam thời gian qua cho thấy, hoạt động chứng minh các vụ án hình sự và quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ bên cạnh những mặt được đã nêu trong Chương 2, cũng có nhiều tồn tại, thiếu sót và xảy ra theo chiều dài của quá trình tố tụng và ở tất cả các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử. Chính vì vậy, cần phải hoàn thiện pháp luật và có những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về chứng cứ trong giải quyết vụ án hình sự nhằm khắc phục những bất cập, tồn tại và thiếu sót này.

9. Tóm lại, qua việc phân tích những tồn tại, bất cập và yếu kém của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong hoạt động chứng minh giải quyết vụ án hình sự, thì việc hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ, cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng có ý nghĩa quan trọng. Trên cơ sở này, luận án đã đề xuất các giải pháp cụ thể như sau: 1) Hoàn thiện những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về chứng cứ; 2) Kiện toàn, đổi mới các cơ quan tiến hành tố tụng về tổ chức, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và tăng cường, đầu tư cơ sở vật chất; 3) Tăng cường sự phối hợp giữa CQĐT, VKS, Tòa án trong thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ và; 4) Tăng cường vai trò tham gia và nâng cao chất lượng của người bào chữa trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/06/2022