Thứ hai, chủ thể quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự là người tiến hành tố tụng hình sự, người tham gia tố tụng hình sự.
Chủ thể của quyền con người trong tố tụng hình sự là những con người cụ thể với các địa vị pháp lý khác nhau trong tố tụng hình sự, bao gồm:
Người tiến hành tố tụng hình sự: Là những người được giao nhiệm vụ tiến hành giải quyết vụ án hình sự bao gồm Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra,
Điều tra viên, Viện trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó chánh án Toà án,Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án.
Người tham gia tố tụng hình sự: Là những người tham gia tố tụng vì có quyền, nghĩa vụ pháp lý liên quan đến vụ án, như người bị tạm giữ, bị can, bị .
Thứ ba, trong tố tụng hình sự, nội dung của quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do được pháp luật quy định cụ thể.
Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự được ghi nhận rộng rãi trong hệ thống văn bản pháp luật như Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, luật thi hành án hình sự , Quy chế tạm giữ, tạm giam… được biểu hiện ra thành các quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng hình sự, người tham gia tố tụng hình sự và mọi cá nhân tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong từng giai đoạn tố tụng hình sự, các chủ thể này có những quyền, nghĩa vụ khác nhau. Cơ chế đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự cũng được cụ thể hoá trong pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý để thực hiện.
Thứ tư, thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự đồng nghĩa với việc đảm bảo quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do
Thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự là trách nhiệm của mọi chủ thể tham gia vào tố tụng hình sự.
Thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự phải thể hiện được hai yêu cầu: Một mặt, hệ thống pháp luật được áp dụng phải có chất lượng cao, nội dung pháp luật đó phải phản ánh được các quy luật khách quan của xã hội. Mặt khác, các chủ thể tố tụng hình sự phải thực hiện đúng, đầy đủ các quyền, nghĩa vụ pháp lý của mình theo quy định pháp luật.
Có thể bạn quan tâm!
- Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 1
- Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 2
- Khái Niệm Quyền Tự Do Và Người Bị Hạn Chế Quyền Tự Do Trong Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
- Bảo đảm quyền con người của những người bị hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình sự Việt Nam - 5
- Vai Trò Của Việc Bảo Đảm Quyền Con Người Của Người Bị Hạn Chế Quyền Tự Do Trong Tố Tụng Hình Sự
- Những Giá Trị Có Thể Vận Dụng Ở Việt Nam Về Bảo Đảm Quyền Con Người Của Người Bị Hạn Chế Quyền Tự Do Trong Tố Tụng Hình Sự
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
Quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự được đảm bảo bởi nhiều yếu tố khác nhau trong đó có pháp luật. Sự vi phạm pháp luật trong tố tụng hình sự là biểu hiện của sự vi phạm quyền con người. Do đó, thực hiện đúng pháp luật trong tố tụng hình sự là đồng nghĩa với việc đảm bảo quyền con người.
1.2. Khái niệm, nội dung, vai trò bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự
1.2.1. Khái niệm bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự
Theo quan niệm chung, "Đảm bảo là làm cho chắc chắn, thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì cần thiết" [43, tr.175].
Mặc dù hiện nay vẫn chưa có khái niệm cụ thể được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, nhưng đảm bảo QCN có thể được hiểu là đảm bảo các điều kiện, yếu tố nhằm thực hiện QCN trong lĩnh vực này theo quy định của pháp luật. Đây là hình thức đảm bảo QCN bằng quyền lực nhà nước một cách công khai, dân chủ, bình đẳng và khách quan nhất, nên có hiệu lực và hiệu quả cao nhất.
Vì vậy, bảo đảm QCN nói chung là sự ổn định về chế độ chính trị, xã hội, một nền dân chủ rộng rãi, một nền kinh tế phát triển và ổn định, các QCN được quy định đầy đủ về số lượng, chất lượng v.v… Bảo đảm QCN nói chung là trách nhiệm của Nhà nước, tổ chức và mọi cá nhân trong quá trình xây dựng, thực hiện QCN, là kết quả tổng hợp của các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, pháp lý. Những yếu tố này được xem xét với tính chất là tiền đề, điều kiện cần thiết đảm bảo thực hiện QCN.
Trong TTHS, bảo đảm QCN của nhóm người bị hạn chế quyền tự do có đặc trưng riêng. Đó là trách nhiệm trực tiếp của các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành TTHS, người tham gia TTHS và mọi tổ chức, cá nhân khác trong quá trình xây dựng, thực hiện QCN, là kết quả tổng hợp của hệ thống các quy định pháp luật bảo đảm QCN của nhóm người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS và cơ chế tổ chức thực hiện các quy định pháp luật đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Khái niệm trên đã nêu được chủ thể có trách nhiệm đảm bảo QCN trong TTHS trong đó nhấn mạnh vai trò của cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành TTHS đối với hoạt động này.
Để bảo đảm QCN trong TTHS, bên cạnh việc củng cố và tăng cường các bảo đảm QCN nói chung, còn phải bảo đảm các yếu tố mang tính đặc trưng riêng có của QCN trong TTHS, như: Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm QCN trong TTHS; cơ chế giám sát đối với việc bảo đảm QCN trong TTHS; cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng; cơ sở vật chất, kỹ thuật của hoạt động tố tụng.
Để bảo đảm QCN trong TTHS, yếu tố quyết định vẫn là con người trong việc tổ chức và tiến hành các hoạt động tố tụng. Họ là người tham gia vào các quy trình hoạt động tố tụng, quyết định các vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, như: tính mạng, tự do, tài sản... của người phạm tội, danh dự, uy tín, tài sản của các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác liên quan... Vì vậy, những người tiến hành các hoạt động tố tụng phải là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm công tác đồng thời phải là người có phẩm chất chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có bản lĩnh vững vàng. Đó là yếu tố cần và đủ để trong hoạt động tố tụng họ mới đảm bảo được sự khách quan toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật, bảo vệ được quyền và lợi ích của công dân, góp phần giữ vững an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội.
Tóm lại, đảm bảo QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS là việc đảm bảo về cơ sở pháp lý của QCN trong TTHS, các điều kiện, yếu tố cần và đủ để duy trì sự ổn định, phát triển và hoàn thiện về QCN trong TTHS. Bao gồm các yếu tố cơ bản: Hệ thống các quy phạm pháp luật; hệ thống các cơ quan tố tụng; năng lực, trình độ, chuyên môn của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng; hướng dẫn áp dụng pháp luật và tuyên truyền giáo dục pháp luật; cơ sở vật chất, kỹ thuật đáp ứng với yêu cầu của hoạt động; bảo đảm quốc tế đối với QCN của người bị hạn chế quyền tự do.
1.2.2. Nội dung bảo đảm quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự
1.2.2.1. Những bảo đảm chung về quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự
Các quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác như Luật bầu cử, Bộ luật dân sự, Luật sở hữu trí tuệ… Là công dân, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền được tôn trọng và bảo đảm các quyền được pháp luật quy định, trừ các trường hợp BLTTHS quy định khác nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ TTHS. QCN nói chung cần được bảo đảm bao gồm:
Một là, bảo đảm dân chủ trong quản lý nhà nước, xã hội.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, chế độ dân chủ xuất phát từ con người và vì con người. Cho nên, QCN, quyền công dân chỉ thực sự được phát triển và đảm bảo dưới chế độ dân chủ.
Dân chủ và QCN, quyền công dân là những khái niệm khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Dân chủ được hiểu là phương thức, cơ chế quản lý xã hội, trong đó nhân dân được coi là chủ thể quyền lực. Dân chủ cũng có thể được hiểu là quyền làm chủ của nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về chính trị. Ở khía cạnh này, dân chủ là một phận của QCN, quyền công dân. Do đó, quyền làm chủ của công dân là yếu tố quyết định bản chất dân chủ của chế độ xã hội, đồng thời chế độ Nhà nước dân chủ là điều kiện để đảm bảo các quyền tự do của con người.
Với quan điểm trên, dân chủ là phương tiện đảm bảo và phát triển QCN, quyền công dân và sự phát huy dân chủ là cơ sở để mở rộng thêm phạm vi và làm sâu sắc hơn về nội dung quyền công dân.
Hai là, bảo đảm về kinh tế.
Đảm bảo sự ổn định, phát triển về kinh tế là cơ sở để đảm bảo và phát triển đối với mọi lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Vì thế, những điều kiện để ổn định và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của con người có tính quyết định đối với việc hiện thực hóa các vấn đề liên quan đến đảm bảo QCN, quyền công dân nói chung và đảm bảo QCN trong lĩnh vực TTHS nói riêng. Trong mối quan hệ này, C.
Mác đã chỉ rò: " quyền con người phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và sự phát triển văn hóa do chế độ kinh tế đó quy định" [6, tr.122].
Bởi vậy, chỉ trên cơ sở đảm bảo được sự ổn định về đời sống kinh tế, thì các đảm bảo khác về mặt chính trị, văn hóa, xã hội mới được thực hiện. Bởi vì sự phát triển kinh tế là cơ sở và nền tảng cho sự phát triển các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, và ngược lại. Để đáp ứng yêu cầu đó, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo các chính sách về bảo vệ quyền tự do sản xuất kinh doanh, về chính sách bảo hiểm, bảo hộ người lao động, bảo hộ người tiêu dùng và đặc biệt là bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi bị xâm hại hoặc bị tranh chấp.
Ba là, bảo đảm về xã hội.
Chính sách xã hội đối với QCN, quyền công dân ở nước ta được thể hiện trong chiến lược con người với mục tiêu và động lực phát triển đất nước vì sự phát triển toàn diện của con người. Vì thế, trong cương lĩnh của Đảng đã xác định "Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội" [12, tr.25]. Vấn đề này được Đảng ta tiếp tục xác định rò trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX là: "Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp" [12, tr.104].
Trên cơ sở đó, Nhà nước ta đã và đang ban hành các văn bản pháp luật về các chủ trương chính sách này nhằm góp phần đảm bảo QCN, quyền công dân trên lĩnh vực chính sách xã hội nói chung, trong đó có lĩnh vực đảm bảo QCN trong lĩnh vực HĐTP vì sự bình đẳng, công bằng trong xã hội. Hiện nay, chỉ trên cơ sở đảm bảo về mặt xã hội mới có điều kiện để giải quyết các vấn đề liên quan đến HĐTP như: quản lý đối với người bị HIV, những người nghiện ma túy, những người bị các bệnh truyền nhiễm khác trong TTHS.
Bốn là, bảo đảm Nhà nước thật sự là của dân, do dân và vì dân.
Nhà nước pháp quyền với đặc trưng cơ bản là sự thống trị tối cao của pháp luật trong đời sống xã hội và yêu cầu đặt ra đối với pháp luật đó phải là pháp luật vì con người, bảo vệ quyền và lợi ích của con người. Trong Nhà nước pháp quyền, những nguyên tắc đảm bảo QCN được thể hiện qua mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước, "những vấn đề liên quan đến việc thực hiện quyền, đó là sự thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ, quyền con người trong mối quan hệ với chế độ dân chủ, nhà nước và pháp quyền..." [6, tr.122]. Quan hệ đó ở nước ta được xác định rò là Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về dân. Như vậy sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước ta vì một mục đích duy nhất là vì con người.
Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đảng ta đã có nhiều định hướng, chính sách nhằm đẩy mạnh cải cách và nâng cao hiệu lực hoạt động của bộ máy nhà nước, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ rò: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp và hành pháp, tư pháp" [12, tr.48].
Năm là, các bảo đảm khác.
QCN, quyền công dân được đảm bảo và thực hiện phụ thuộc rất lớn vào trình độ dân trí của mỗi quốc gia. Chỉ trên cơ sở trình độ dân trí, công dân mới nhận thức được đầy đủ quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình để thực hiện hành vi của mình theo yêu cầu của pháp luật, chế ngự được khả năng, điều kiện vi phạm pháp luật, vi phạm đến quyền lợi của người khác.
Do vậy, phát triển khoa học công nghệ, tiến hành cải cách nâng cao chất lượng của hệ thống giáo dục của công dân nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng năng lực làm chủ của công dân đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là quốc sách hàng đầu trong Hiến pháp 1992 sửa đổi và các Văn kiện của Đảng.
Cùng với sự phát triển khoa học công nghệ, công tác cải cách phát triển giáo dục, mở rộng mạng lưới thông tin rộng khắp trong cả nước là yêu cầu được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, đã trở thành một phương tiện không thể thiếu được
của nhân dân nhằm nâng cao dân trí, bảo đảm QCN tham gia vào việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
1.2.2.2. Những bảo đảm đặc trưng về quyền con người của người bị hạn chế quyền tự do trong tố tụng hình sự
Bảo đảm pháp lý có nội dung rộng hơn khái niệm pháp luật, nó được hiểu là hệ thống các quy định pháp luật quy định về QCN và cơ chế tổ chức thực hiện các quy định đó trong thực tiễn cuộc sống. Nội dung cụ thể bao gồm:
Một là, bảo đảm thông qua hệ thống các quy định pháp luật quy định về quyền con người trong tố tụng hình sự và tổ chức, hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự
Ở Việt Nam, QCN là các giá trị đối với những thành quả cách mạng đã đạt được trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã được quy định bằng pháp luật thành các quyền và nghĩa vụ của công dân. Vì vậy, Điều 14 Hiến pháp 2013 sửa đổi quy định: "Ở Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật" [54, tr.31].
Vì vậy, để bảo đảm QCN trong TTHS, trước hết phải xây dựng hệ thống các quy phạm pháp luật hoàn chỉnh trong lĩnh vực này. “Đó chính là chuẩn mực chung, công bằng đối với tất cả mọi người, vừa cần đến Nhà nước để thực hiện công bằng xã hội vừa cần đến để hạn chế sự lạm quyền" [20, tr.13], thông qua đó, công dân mới có cơ sở pháp lý để thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia vào quan hệ pháp luật trong lĩnh vực TTHS. Khi nghiên cứu vấn đề bảo đảm QCN của người bị hạn chế quyền tự do trong TTHS là cần tập trung phân tích các quy định của BLTTHS và thực hiện các quy định đó trên thực tế các nội dung cơ bản sau đây:
- Nghiên cứu các nguyên tắc cơ bản TTHS liên quan đến bảo đảm QCN trong TTHS như tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân (điều 4), nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân (điều 6),
nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân (điều 7), nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân (điều 8), nguyên tắc suy đoán không có tội (điều 9), nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (điều 10), nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điều 11), nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng (điều 12), nguyên tắc xét xử công khai (điều 18), nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (điều 19), nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan (điều 29), nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành TTHS gây ra (điều 30) và nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS (điều 31)… Nguyên tắc TTHS là tư tưởng chỉ đạo được quy định trong BLTTHS cần được tuân thủ trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự. Tuân thủ các tư tưởng chỉ đạo liên quan đến việc bảo vệ quyền tự do, dân chủ của công dân, đến quyền tố tụng của những người tham gia tố tụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm QCN của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
- Quy định địa vị tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng. Mục đích của hoạt động tố tụng là giải quyết khách quan, toàn diện, đầy đủ, đúng pháp luật các vụ án để xác định đúng quyền và nghĩa vụ pháp lý mà công dân phải thực hiện, tránh việc xử oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức. cơ cấu, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng.
Muốn vậy, các văn bản quy phạm pháp luật phải quy định đầy đủ, cụ thể rò ràng về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án; xác định rò quyền và nghĩa vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người tham gia tố tụng; quyền và nghĩa vụ của tổ chức bổ trợ tư pháp và các cơ quan tổ chức, cá nhân khác khi họ tham gia tố tụng. Đặc biệt, cần tập trung vào việc nghiên cứu trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành TTHS trong mối quan hệ với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và quyền tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS. Bởi vì tôn trọng quyền công dân, nâng cao trách nhiệm của Nhà nước, của cơ quan Nhà nước đối với