triển của đất nước và nắm hoạt động của bộ máy nhà nước, tất nhiên Tòa án không nằm ngoài số đó.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua đường lối chính trị và giới thiệu đảng viên tham gia vào các chức danh của Nhà nước, chính vì điều này ảnh hưởng đến tính độc lập của Thẩm phán khi xét xử, hoạt động của Tòa án phải thể hiện bản chất giai cấp sâu sắc. Nhưng để tạo ra một cơ chế độc lập cho Thẩm phán trong mối liên hệ với tổ chức Đảng là điều cần thiết và mặc dù cấp ủy Đảng không can thiệp trực tiếp vào việc giải quyết vụ án cụ thể nhưng tùy thuộc vào yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở địa phương trong từng giai đoạn mà cấp ủy đòi hỏi việc xét xử các vụ án hình sự theo hướng nghiêm khắc hơn đối với một số tội phạm cụ thể. Thực tế hiện nay phải thừa nhận rằng còn đâu đó ở một số địa phương còn xảy ra tình trạng Cấp uỷ Đảng và Tòa án cấp trên trực tiếp chỉ đạo một số vụ án cụ thể và như vậy sự độc lập của Thẩm phán sẽ bị chi phối, ảnh hưởng đến hoạt động chuyên môn.
Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động xét xử còn thể hiện qua khâu tổ chức cán bộ, các Thẩm phán bổ nhiệm mới hay tái bổ nhiệm đều phải có ý kiến thảo thuận của Ban Thường vụ cấp uỷ cùng cấp cho nên họ có thái độ rất thận trọng trong việc giữ mối quan hệ với Cấp ủy Đảng điều đó ảnh hưởng rất lớn đến tính độc lập của Thẩm phán cho nên trong quá trình hoạt động xét xử của mình Thẩm phán cũng cần xây dựng những mối quan hệ hài hòa để tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan, cá nhân và tổ chức.
Khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 quy định "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm" [36, Điều 9]. Trong thực tiễn xét xử đã có rất nhiều Thẩm phán đã thực hiện tốt nguyên tắc này, mặc dù trong Hội đồng xét xử thì số lượng Hội thẩm nhân dân luôn chiếm đa số nhưng không phải vì thế mà mất đi tính độc lập của Thẩm phán, với trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
trong mọi tình huống cụ thể Thẩm phán luôn giữ vai trò chủ động để có thể vận dụng pháp luật để đưa ra những ý kiến đúng đắn của mình.
Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật còn được hiểu pháp luật quy định như thế nào thì Thẩm phán phải thực hiện đúng như vậy. Các cấp Tòa án hiện nay vẫn còn tồn tại việc duyệt án hay thỉnh thị án, xét về bản chất đây là việc làm cần thiết để lãnh đạo Tòa án nắm bắt được nội dung vụ án để có thể điều hành hoạt động xét xử cũng như giúp cho Thẩm phán báo cáo quan điểm xử lý vụ án trước người có trách nhiệm và rà soát lại quan điểm bằng ý kiến tập thể để tránh những thiếu sót không đáng có. Việc duyệt án trước khi xét xử đương nhiên và bắt buộc tại các Tòa án, nhiều Thẩm phán cho rằng việc duyệt án xong coi như vụ án đã được xử xong, lại có trường hợp thông qua việc duyệt án thì Chánh án mà áp đặt quan điểm bắt buộc Thẩm phán phải trung thành với quan điểm đó. Về việc thỉnh thị án ở bất kỳ giai đoạn nào vẫn là điều cần thiết, vì Tòa án cấp trên ngoài việc giám đốc xét xử Tòa án cấp dưới còn có chức năng hướng dẫn và bảo đảm áp dụng pháp luật thống nhất trong ngành và địa phương mình.
Hàng năm Ngành Tòa án vẫn duy trì công tác rút kinh nghiệm đối với các bản án bị cải, sửa, huỷ thông qua công tác giám đốc án, để đánh giá những bài học kinh nghiệp, và đề ra những định hướng xét xử đúng đắn và đảm bảo thống nhất chung trong phạm vi toàn quốc. Ngành Tòa án không thể hoàn thành nhiệm vụ của mình nếu không có sự phối hợp với các cơ quan chuyên môn khác, sự phối hợp này thể hiện khi các cơ quan cùng họp bàn và đề ra những giải pháp để tháo gỡ những vướng mắc mà các Tòa án gặp phải trong quá trình xét xử.
Hoạt động xét xử của Tòa án luôn mang tính chất tập thể. Ở một số địa phương nhất là các tỉnh miền núi nhận thức hiểu biết pháp luật của các Hội thẩm nhân dân còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc đặt
ra, hầu hết các Hội thẩm nhân dân làm công tác kiêm nhiệm, chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản về pháp luật mà chỉ sau khi được bầu họ mới được tập huấn trong một thời gian ngắn và hơn nữa do yêu cầu của công việc chuyên môn các Hội thẩm nhân dân không có điều kiện cập nhật kiến thức pháp lý là điều thực tế đang diễn ra hiện nay. Nên việc tham gia Hội đồng xét xử và đưa ra phán quyết đối với các Hội thẩm nhân dân chủ yếu dựa vào kinh nghiệm sống chứ chưa hoàn toàn dựa trên các quy định của pháp luật phần nào ảnh hưởng đến tính độc lập xét xử của các Hội thẩm nhân dân. Chế độ đãi ngộ đối với Hội thẩm nhân dân chưa thoả đáng cũng ảnh hưởng đến sự nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân khi tham gia hoạt động xét xử.
Khoản 3 Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Khoản 2 Điều 326 BLTTHS sửa đổi năm 2015) quy định “Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa....” [35], Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan điều tra, không bị lệ thuộc vào cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát. Quá trình nghiên cứu hồ sơ và tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, tỉ mỉ, khoa học, toàn diện, kể cả chứng cứ có trong hồ sơ và chứng cứ tại phiên tòa. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Ảnh Hưởng Của Phương Thức Tổ Chức Quyền Lực Nhà Nước
- Vai Trò Của Thẩm Phán Trong Thực Tiễn Hoạt Động Tố Tụng Hình Sự
- Vai Trò Của Thẩm Phán Trong Việc Thực Hiện Các Nguyên Tắc Cơ Bản Của Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự
- Sự Cần Thiết Của Công Cuộc Cải Cách Tư Pháp
- Những Yêu Cầu Cơ Bản Về Việc Cải Cách Hoạt Động Của Tòa Án Và Thẩm Phán
- Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Nguyên tắc độc lập xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân còn bị rằng buộc bởi mối quan hệ giữa họ với những người tham gia tố tụng khác, các mối quan hệ khác... ít nhiều cũng ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả xét xử làm cho Thẩm phán trong một số ít trường hợp không tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật và đây chính là những quy định đã làm hạn chế tính độc lập và tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không có nghĩa là Thẩm phán và Hội thẩm xét xử tùy tiện mà độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập là điều cần cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử còn tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện.
2) Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể, quyết định theo đa số và nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia
Nguyên tắc trên được quy định tại khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 8, 10 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; Điều 15, 17 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 22, 24 BLTTHS sửa đổi năm 2015).
Nguyên tắc xét xử tập thể đòi hỏi trong thực tiễn không bao giờ có vi phạm, nhưng nguyên tắc quyết định theo đa số còn nhiều vấn đề bất cập. Hội thẩm nhân dân khi tham gia xét xử do nhận thức hay do bị tác động mà biểu quyết không đúng vấn đề nội dung pháp luật quy định, trong khi đó Hội thẩm nhân dân chiếm đa số nên bản án được tuyên theo hướng đa số. Cũng có trường hợp Thẩm phán cũng muốn áp dụng tội danh hay hình phạt nhẹ hơn nhưng lại thuyết phục Hội thẩm biểu quyết đa số theo hướng đó, còn bản thân Thẩm phán thì biểu quyết ngược lại.
Tuyên án theo đa số là cơ chế đương nhiên của việc xét xử tập thể. Nguyên tắc xét xử tập, quyết định theo đa số ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động nghiệp vụ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đặc biệt trong việc
nghị án. Nhưng trong thực tế qua nghiên cứu biên bản nghị án trong các hồ sơ hình sự đã xét xử ở một số tòa án địa phương, có thể nhận thấy tại các biên bản này chỉ ghi rất đơn giản và chú trọng tới vấn đề tội danh và hình phạt, còn các nội dung như án phí hay xử lý vật chứng thường bị bỏ sót. Điều 222 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 326 BLTTHS sửa đổi năm 2015) quy định "Chỉ có Thẩm phán và hội thẩm có quyền nghị án. Các thành viên Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một.." [35] quy định là như vậy nhưng trên thực tế đa số các biên bản nghị án không ghi ý kiến thảo luận của Hội đồng xét xử mà chỉ ghi "Sau khi thảo luận Hội đồng xét xử nhất trí…". Như vậy, việc tiến hành nghị án của Hội đồng xét xử được thể hiện qua biên bản nghị án còn nhiều thiếu sót, tất cả những thiếu sót này trong công tác áp dụng pháp luật là những việc mà bản thân mỗi Thẩm phán cũng như các thành viên trong Hội đồng xét xử nên thay đổi để việc áp dụng pháp luật được chính xác.
Việc thực hiện và áp dụng nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm ngang quyền với nhau trong xét xử, nhưng trên thực tế việc ngang quyền chưa thể hiện đúng bản chất của nó. Hiện nay, do trình độ nhận thức pháp luật của Hội thẩm chưa cao (Hội thẩm còn làm công tác kiêm nhiệm) và hơn nữa trong mọi trường hợp thì trình độ chuyên môn xét xử của các Hội thẩm nhân dân chưa thể tương xứng với trình độ xét xử của Thẩm phán, trong một vụ án hình sự, khi nhận được hồ sơ, Thẩm phán có ít thời gian để nghiên cứu hồ sơ, có nhiều trường hợp các Hội thẩm nhân dân không hề đọc hồ sơ, chỉ xem qua cáo trạng để tham gia xét xử hay nếu có thì chỉ nghiên cứu sơ sài hoặc đọc một vài lời khai có trong hồ sơ vụ án. Việc nghiên cứu hồ sơ của các Hội thẩm nhân dân pháp luật chưa quy định là bắt buộc, nên công việc này hoàn toàn phụ thuộc vào trách nhiệm và sự nhiệt tình của các Hội thẩm nhân dân. Mặt khác, chế độ chịu trách nhiệm trong trường hợp án bị cải, sửa, huỷ đối với hội thẩm là
không có mà trách nhiệm xét xử trong những vụ án hình sự vẫn đặt lên vai của Thẩm phán và tương ứng với trách nhiệm đó là quyền của Thẩm phán, như vậy có thể hiểu rằng đương nhiên các Hội thẩm nhân dân lại trao quyền lực của mình cho Thẩm phán và đồng nghĩa các ý kiến của Thẩm phán thường được các Hội thẩm nhân dân đồng ý, nhất trí. Một suy nghĩ lối mòn, duy ý trí các Hội thẩm nhân dân cho rằng về nghiệp vụ chuyên môn xét xử họ không bằng được Thẩm phán, cũng như về thời gian để nghiên cứu hồ sơ chưa kỹ bằng Thẩm phán, nếu trong hoạt động xét xử có sai sót gì thì Thẩm phán mới là người chịu trách nhiệm còn các Hội thẩm nhân dân không phải chịu trách nhiệm gì. Do đó, có người nói Hội thẩm là những người "nghị gật", Thẩm phán đưa ra ý kiến như thế nào cũng nghe, và không có lập trường chứng kiến riêng của mình.
Tất cả những vấn đề hạn chế của các Hội thẩm nhân dân đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguyên tắc ngang quyền cũng như nguyên tắc độc lập trong xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
Đánh giá về sự đóng góp của Hội thẩm cho hoạt động xét xử: trong số 280 người được hỏi thì 64 ý kiến cho rằng Hội thẩm tham gia có hiệu quả vào xét xử; 142 ý kiến cho rằng họ không đóng góp gì nhiều do hạn chế về kiến thức chuyên môn; 104 ý kiến cho rằng Hội thẩm hầu như không có ý kiến nào độc lập, do vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng xét xử [8, tr.173].
Ngành Tòa án hiện nay đang rất chú trọng tới việc nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm, kỹ năng thực hành xét xử cho các Hội thẩm nhân dân. Nhưng để đảm bảo thực hiện đầy đủ đúng bản chất các nguyên tắc trên trong hoạt động tố tụng hình sự là vấn đề cần phải có lộ trình và thời gian để chúng ta có đội ngũ các Hội thẩm nhân dân có kiến thức pháp luật vững vàng, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ khi tham gia xét xử các vụ án hình sự.
2.2.3. Vai trò của Thẩm phán với việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp
Trong toàn bộ quá trình tố tụng, xét xử đóng vai trò trung tâm, thể hiện đầy đủ nhất bản chất của hệ thống tư pháp của mỗi nhà nước, là giai đoạn quyết định tính đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 12/03/2014 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định:
Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp, chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp; từng bước xã hội hóa một số hoạt động tư pháp và tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trong hoạt động tố tụng, hoàn thiện việc tăng thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp huyện…, từng bước đổi mới tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân các cấp [5].
Trên tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong giai đoạn hiện nay hệ thống các cơ quan Tòa án đã tổ chức được nhiều phiên tòa xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp, những phán quyết của Thẩm phán đã bảo đảm khách quan, nghiêm minh, đúng pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa điều khiển phiên tòa đảm bảo nâng cao chất lượng việc tranh tụng dân chủ giữa Kiểm sát viên với Luật sư và những người tham gia tố tụng, dần từng bước khắc phục việc xét xử oan sai, bỏ lọt tội phạm; đảm bảo thời hạn xét xử theo luật định; tỷ lệ các bản án, quyết định của Tòa án bị cải, sửa, hủy đã giảm; việc kết án oan, sai cũng từng bước được hạn chế theo từng năm.
1) Về hình thức thực hiện: Trong quá trình xét xử Thẩm phán làm nhiệm vụ Chủ tọa phiên tòa, điều khiển và giữ kỷ luật tại phiên tòa. Khi bắt đầu phiên tòa, Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử một cách rõ ràng, chính xác, dõng dạc thể hiện tính uy nghiêm của pháp luật.
2) Về thủ tục bắt đầu phiên tòa: Trình tự, thủ tục phiên toà bảo đảm sự trang nghiêm, đảm bảo để những người tham gia tố tụng thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đáp ứng và giải quyết những đề nghị của những người tham gia phiên tòa như: đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, yêu cầu mời Luật sư bào chữa, triệu tập thêm người làm chứng khi có căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
3) Về kỹ năng xét hỏi và điều khiển quá trình xét hỏi: Xét hỏi tại phiên tòa là bước điều tra công khai, có sự tham gia của tất cả những người tham gia tố tụng nhằm kiểm tra các chứng cứ và làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án. Căn cứ vào kế hoạch xét hỏi đã được chuẩn bị, việc xét hỏi được tiến hành theo trình tự, Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, người bào chữa… những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị với Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa hỏi thêm những tình tiết cần làm sáng tỏ bản chất của vụ án. Việc xét hỏi của Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa đã bám sát quá trình diễn biến tại phiên toà, chủ động, kịp thời xử lý những tình huống phát sinh và tạo điều kiện cho bị cáo và những người tham gia tố tụng trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, yêu cầu nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, việc ép cung mớm cung và xét hỏi mang tính chất hình thức đã được dần khắc phục.
4) Về kỹ năng điều khiển tranh luận tại phiên tòa: Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thì tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Chủ tọa phiên tòa vừa là người tiến hành tố tụng vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và người