tham gia tố tụng khác. Với vai trò của người điều khiển phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải là người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án, đồng thời chịu trách nhiệm chính về những vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với Hội đồng xét xử.
Để tổ chức và điều khiển phiên tòa đạt kết quả, chủ tọa phiên tòa chỉ giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng cho những người tham gia tố tụng, tuyệt đối không được giải thích, bình luận, đánh giá hành vi phạm tội, các tình tiết là yếu tố định tội, yếu tố định khung hình phạt, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Không giải thích cho bị cáo nếu khai báo thành khẩn thì được giảm nhẹ hình phạt; không được nhận xét bị cáo ngoan cố; không được mạt sát hoặc có những lời lẽ có tính chất phê phán đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Tranh tụng tại phiên tòa chính là sự đối đáp giữa một bên buộc tội (Kiểm sát viên hoặc người bị hại) và một bên gỡ tội hoặc giữa hai bên có quyền và lợi ích đối lập nhau bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu bằng cách hỏi đáp và tranh luận. Nếu trong quá trình hỏi đáp, người hỏi và người đáp được đánh giá, bình luận, nhận xét nội dung câu hỏi cũng như nội dung câu trả lời, thì quá trình hỏi đáp cũng là quá trình tranh luận, người hỏi và người đáp nêu những quan điểm của người tham gia vào việc hỏi đáp về một vấn đề cụ thể, đồng ý hay phản đối ý kiến của người khác. Điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa là điều khiển quá trình này, mà chủ yếu là điều khiển việc đối đáp giữa Kiểm sát viên với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác hoặc giữa những người tham gia tố tụng có quyền, lợi ích đối lập nhau. Thẩm phán phải nắm chắc các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; đọc kỹ hồ sơ vụ án; dự kiến các tình huống có thể xảy ra tại phiên tòa và chủ động tìm biện pháp giải quyết khi tình huống đó xảy ra.
Tranh luận tại phiên tòa là một trong những bước tiến quan trọng để đưa pháp luật tố tụng nước ta từ tố tụng xét hỏi sang tố tụng tranh tụng theo
tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5) Việc nghị án và tuyên án: Sau khi kết thúc phần tranh luận, Hội đồng xét xử vào phòng nghị án. Chỉ có Hội đồng xét xử, tức là chỉ có Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa và Hội thẩm nhân dân mới được nghị án, Kiểm sát viên và Thư ký không được tham gia vào việc quyết định của bản án. Trong phòng nghị án các vấn đề thảo luận được chia theo từng vấn đề một và mỗi vấn đề được giải quyết bằng cách biểu quyết theo đa số, khi nghị án Hội đồng xét xử căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được đảm bảo tính khách quan trong việc ra bản án, quyết định, mọi thành viên trong Hội đồng xét xử phải biểu quyết và Thẩm phán phải biểu quyết sau cùng. Tất cả vấn đề được thảo luận và biểu quyết được coi là bí mật công tác.
Sau khi bản án được thông qua, Hội đồng xét xử trở lại phòng xét xử để tuyên án. Khi tuyên án Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa phải thể hiện được tính uy nghiêm, mức độ quan trọng của bản án.
Với những kết quả đạt được trong thực tiễn xét xử, hoạt động xét xử của Thẩm phán còn một số hạn chế sau:
Một là: trên thực tế còn có nhiều Hội đồng xét xử, nhất là Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa vẫn điều hành phiên tòa chủ yếu theo cách thức thẩm vấn, xét hỏi thiên về buộc tội áp đặt trên cơ sở hồ sơ điều tra, truy tố đối với bị cáo. Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại tòa chưa coi việc tranh luận là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình nên chỉ tranh luận chiếu lệ thậm chí không tranh luận và theo xu hướng giữ nguyên nội dung cáo trạng. Một số Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa còn bị động, lúng túng trong quá trình điều khiển phiên tòa nhất là các vụ án có nhiều Luật sư tham gia....
Hai là: việc Cơ quan điều tra ra kết luận điều tra và Viện Kiểm sát ra cáo trạng truy tố hồ sơ vụ án theo hướng buộc tội cũng đồng thời là hướng Tòa án phải theo trong khi tiến hành phiên tòa làm cho Tòa án có phần nào thiên về ý kiến của Viện Kiểm sát hơn là ý kiến của bên bị cáo. Do vậy, để thực hiện triệt để hơn nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa hướng trước mắt và lâu dài cần phải sửa đổi, bổ sung các quy định về tố tụng theo hướng trao nghĩa vụ chứng minh cho các bên tranh tụng chứ không phải cho cơ quan Tòa án.
Có thể bạn quan tâm!
- Vai Trò Của Thẩm Phán Trong Thực Tiễn Hoạt Động Tố Tụng Hình Sự
- Vai Trò Của Thẩm Phán Trong Việc Thực Hiện Các Nguyên Tắc Cơ Bản Của Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự
- Vai Trò Của Thẩm Phán Với Việc Thực Hiện Nguyên Tắc Tranh Tụng Tại Phiên Tòa Theo Tinh Thần Cải Cách Tư Pháp
- Những Yêu Cầu Cơ Bản Về Việc Cải Cách Hoạt Động Của Tòa Án Và Thẩm Phán
- Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam - 11
- Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
Ba là: Kỹ năng và trình độ điều khiển việc tranh tụng tại phiên tòa của một số ít Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới; còn một bộ phận không nhỏ các Thẩm phán còn hạn chế về năng lực, chậm đổi mới về nhận thức, thậm chí một số Thẩm phán bản lĩnh chính trị không vững vàng, sa sút về phẩm chất đạo đức dẫn đến vi phạm pháp luật.
Bốn là: Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ định kỳ hàng năm cho đội ngũ cán bộ ngành Tòa án đã có chuyển biến về nội dung và chất lượng nhưng việc tiến hành còn chậm, không đồng bộ, hiệu quả, chất lượng chưa đạt yêu cầu đề ra.
Năm là: việc triển khai thực hiện nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của các cơ quan Tòa án, và Thẩm phán ở một số địa phương đôi khi còn mang tính hình thức, chưa thật sự bảo đảm các bản án, phán quyết của Tòa án được căn cứ vào kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa.
Kết luận Chương 2
Qua phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai trò của Thẩm phán và thực tiễn thi hành, có thể nói Thẩm phán có vai trò quyết định trong các vụ án hình sự, Thẩm phán là thành phần không thể thiếu trong bất kỳ một phiên tòa nào, Thẩm phán chuẩn bị cho phiên tòa xét xử, Thẩm phán là thành viên trong mỗi Hội đồng xét xử để quyết định một người có tội hay không có tội và quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Thẩm phán cũng tham gia là thành viên xem xét một bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và Thẩm phán chính là nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng của việc xét xử, bảo đảm cho hoạt động xét xử của Tòa án đúng theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở nghiên cứu pháp luật thực định và nghiên cứu về thực trạng việc áp dụng các quy định pháp luật về vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự. Thẩm phán với tư cách là nhân vật trung tâm trong hoạt động xét xử của Tòa án, Thẩm phán là người đại diện cho nền công lý nhà nước, nhân danh nhà nước, Thẩm phán phải có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình trong toàn bộ quá trình hoạt động tố tụng để đảm bảo cho các phán quyết của Thẩm phán được công minh, đúng pháp luật
Bên cạch những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập, những việc chưa đồng nhất với các quy định của pháp luật tố tụng hình sự thì vai trò của người Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự phải có những thay đổi, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử các vụ án hình sự của các cơ quan Tòa án nói chung và Thẩm phải nói riêng trước yêu cầu cải cách tư pháp.
Chương 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ VAI TRÒ CỦA THẨM PHÁN TRƯỚC
YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM
3.1. Sự cần thiết của công cuộc cải cách tư pháp
Thực hiện Nghị quyết số 08-/NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Trên cơ sở Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị thì về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW thì Cải cách tư pháp được xác định là chủ trương lớn của Đảng nhằm từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội bền vững, chủ động hội nhập quốc tế. Trong đó Tòa án được xác định là cơ quan có vai trò quan trọng là hạt nhân trung tâm trong tiến trình cải cách tư pháp.
Hiến pháp 2013 quy định: Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quyền tư pháp” [33, Điều 102, Khoản 1], bảo vệ quyền con người... Đảng đặt ra mục tiêu cải cách tư pháp là để bảo vệ quyền con người và có thể nói quyền con người trở thành mục tiêu của cải cách tư pháp. Để đảm bảo tính đồng bộ, sau khi có Hiến pháp 2013 thì các đạo luật khác đã được Quốc hội thông qua như: Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 2014; Bộ Luật Hình sự sửa đổi năm 2015; Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự… Những nỗ lực đó tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam:
Đây là quá trình đổi mới toàn diện hệ thống tư pháp với trung tâm là hoạt động xét xử nhằm mục tiêu làm cho tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp ngày càng thể hiện đầy đủ, đúng đắn bản chất dân chủ, của dân, do dân, vì dân của quyền tư pháp, phù hợp với các nguyên tắc, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế thị trường [8, tr.273].
Về phương pháp tiến hành, cần chọn cải cách Tòa án là khâu đột phá trong cải cách tư pháp, bởi vì trong hệ thống các cơ quan tư pháp thì Tòa án có vai trò đặc biệt quan trọng. Phán quyết của Tòa án thể hiện kết quả cuối cùng của tiến trình tố tụng trong việc tuyên bố một công dân có tội hoặc không có tội, đúng hoặc sai. Vì lẽ đó, Tòa án là nơi thể hiện sâu sắc nhất bản chất của nhà nước và nền công lý nước ta; đồng thời thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của hệ thống tư pháp trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cải cách Tòa án là tạo ra các điều kiện và các phương tiện tố tụng tối ưu để giải quyết các vụ án đúng pháp luật, kịp thời và nghiêm minh.
Vì vậy, cải cách Tòa án cần nhằm đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, Cải cách tư pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước , được Đảng ta đề ra tại các văn kiện Đại hội Đảng. Hoạt động của Tòa án phải phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội Đảng đã đề ra.
Thứ hai: Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng, nâng cao chất lượng tranh tụng công khai, dân chủ công bằng tại các phiên tòa, đảm bảo mọi cá nhân, tổ chức đều bình đẳng trước cơ quan tư pháp mà tập trung nhất là tại phiên tòa xét xử công khai.
Thứ ba: Thông qua thực tiễn xét xử, tiến hành tổng kết, phát hiện và kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước.
Thứ tư: Xây dựng một hệ thống Tòa án gần dân, thuận lợi cho dân; đồng thời phải tiết kiệm cho ngân sách nhà nước.
Những yêu cầu cải cách cơ bản mang tính mục tiêu trên đây là phù hợp với xu hướng phát triển của Nhà nước ta trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều Nghị quyết, Chỉ thị về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước và pháp luật trong đó có nhấn mạnh đến nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp như Nghị quyết số 08
- NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, và Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách đến năm 2020. Trên cơ sở đó phải cải cách hệ thống cơ quan tư pháp từ tổ chức đến cơ chế hoạt động, năng lực cán bộ là nhiệm vụ cấp bách có tính chiến lược lâu dài.
Sự lãnh đạo toàn diện, chặt chẽ của Đảng đối với các cơ quan tư pháp là yêu cầu khách quan và cần thết để đảm bảo cho các cơ quan tư pháp thể hiện bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, bảo đảm cho các cơ quan tư pháp thực hiện đúng quan điểm của Đảng và pháp luật của Nhà nước hạn chế các sai sót có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước, trước mắt cần phải tập trung các vấn đề sau:
Một là: Đảng đề ra những quan điểm chỉ đạo, định hướng xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trên cơ sở các quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước thể chế hóa thành các quy định pháp luật, làm cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn đổi mới tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp hoạt động theo đúng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Hai là: Đảng lãnh đạo các cơ quan tư pháp thông qua công tác tổ chức cán bộ, đặc biệt là chỉ đạo xây dựng và kiện toàn của bộ máy của các cơ quan tư pháp; lãnh đạo công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, quản lý cán bộ chủ chốt của các cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp, đảm bảo cho cán bộ tư pháp phải là người “Phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Ba là: Đảng chỉ đạo sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan tư pháp nhất là giữa Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án và Thi hành án khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ; chỉ đạo sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội trong việc đấu tranh, phòng chống tội phạm và giải quyết những xung đột trong xã hội nói chung và trong hoạt động tư pháp nói riêng.
Bốn là: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư pháp trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tôn trọng chức năng, quyền hạn của các cơ quan tư pháp theo luật định, bảo đảm cho các cơ quan tư pháp hoạt động độc lập, chỉ tuân theo pháp luật.
Theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị thì mục tiêu cải cách tư pháp là “xây dựng nền tư pháp trong sạch, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân… hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao” [15, tr.6]. Cải cách tư pháp trong mối quan hệ với phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay cần phải được thực hiện đồng bộ tại các cơ quan tư pháp và trung tâm là hệ thống cơ quan Tòa án “Cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc" [15, tr.5].
Cải cách tư pháp đối với Cơ quan điều tra và Viện Kiểm sát là nhằm mục đích phát hiện chính xác sự thật khách quan của vụ án để phục vụ cho