Mối Quan Hệ Giữa Thẩm Phán Với Các Chức Danh Tư Pháp Khác

phán đại diện cho quyền lực tư pháp, quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước là "tượng trưng cho khát vọng của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội về chân, thiện, mỹ về một hệ thống tiêu chí đạo đức: sống làm người” [39, tr.37].

Thẩm phán là một chức danh tư pháp, theo Giáo sư, Tiến sỹ Võ Khánh Vinh: "Chức danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ

trong các cơ quan tư pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ năng thực hành nghề và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh xưng, được bổ nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng đẩy đủ các tiêu chuẩn và điều kiện xác định theo quy định của pháp luật" [53, tr.43].

Do vậy, chức danh tư pháp theo Luật tố tụng hình sự Việt Nam bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký toà án, Hội thẩm nhân dân, Thẩm tra viên.

Trong các chức danh tư pháp thì Thẩm phán được xác định là một chức danh tư pháp quan trọng và có vai trò quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp.

Nghị Quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân và nâng cao kỹ năng thực hành nghề nghiệp của Thẩm phán.

Từ những phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm Thẩm phán như sau: “Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc Thẩm quyền của Tòa án”

Từ khái niệm trên thì vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự được thể hiện ở những điểm cơ bản sau:

Một là: Những quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong tố tụng hình sự.

Hai là: Những quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.

1) Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán

Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Thẩm phán được quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013; Điều 65, 76 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014; Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 45 Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2015); Điều 11, 12, 13, 14, 15, 16 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002.

Vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự Việt Nam - 3

Nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán về nguyên tắc phải được xác định đầy đủ trên cơ sở vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ của Thẩm phán trong tố tụng hình sự. Mặt khác, chúng phải được pháp luật quy định cụ thể rõ ràng và chặt chẽ. Có như vậy mới đảm bảo cho Thẩm phán hoàn thành hiệu quả nhiệm vụ xét xử của mình, tránh tình trạng tuỳ tiện hay lạm dụng quyền hạn trong thực tiễn xét xử.

Nhiệm vụ quyền hạn của Thẩm phán trong mỗi một giai đoạn lịch sử cụ thể cũng cần có những thay đổi cho phù hợp với tình hình thực tế song vẫn dựa trên những nguyên tắc chung của tố tụng hình sự và nhằm mục đích là thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật.

2) Vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp hình sự

Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thì tại phiên toà sơ thẩm hình sự, Chủ tọa phiên toà vừa là người tiến hành tố tụng vừa là người điều khiển toàn bộ hoạt động tố tụng tại phiên tòa của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác.

Với vai trò là người tiến hành tố tụng, chủ tọa phiên tòa phải thực hiện đầy đủ, chính xác các công việc mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với chủ tọa phiên tòa, đồng thời chịu trách nhiệm chính về những vấn đề Bộ luật tố tụng hình sự quy định đối với Hội đồng xét xử, thay mặt Hội đồng xét xử công

bố những quyết định đã được thông qua trong phòng nghị án cũng như tại phòng xử án.

Với vai trò của người điều khiển phiên tòa, chủ tọa phiên tòa phải là người tổ chức, người chỉ huy cao nhất đối với mọi hoạt động tố tụng và hành vi tố tụng tại phòng xử án.

Thông qua hoạt động xét xử của mình mỗi một phán quyết của Thẩm phán có thể dẫn tới chỗ công dân, pháp nhân được hưởng quyền và lợi ích hoặc phải gánh chịu các nghĩa vụ nhất định, sai lầm trong hoạt động xét xử của Thẩm phán sẽ dẫn đến tình trạng xử oan, sai, nhất là trong lĩnh vực hình sự. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà có thể làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự công bằng của xã hội, vào pháp luật của Nhà nước ta.

Thông qua hoạt động xét xử của Thẩm phán cũng góp phần vào việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm của công dân.

Trong hoạt động xét xử để đưa ra được một phán quyết đúng pháp luật, Thẩm phán phải am hiểu về pháp luật, có hiểu biết về kiến thức xã hội, nắm bắt tâm lý của từng cá thể và có lương tâm của Người thẩm phán "Cơ sở của các phán quyết là pháp luật, nhưng kết quả của các phán quyết có công bằng, vô tư và khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong sáng" [26, tr.38].

Thẩm phán phải có niềm tin nội tâm, đó là niềm tin vào công lý. Bởi vì, trong quá trình xét xử Thẩm phán cũng sẽ không bao giờ dự liệu hết được mọi tình huống xảy ra trong thực tế. Có những quy định của pháp còn xung đột, không thống nhất, song khi xét xử Thẩm phán vẫn phải đảm bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tòa án không chỉ là cơ quan bảo vệ pháp luật mà còn là biểu tượng của

công lý, sự công bằng xã hội "Khi phải đối mặt với quan tòa, với công đường người dân chờ đợi sự công minh, sáng suốt. Tòa án là người đại diện của công lý và quan tòa là cán cân công lý" [8, tr.23].

1.1.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh tư pháp khác

Trong cơ quan Tòa án, Thẩm phán có rất nhiều mối quan hệ như quan hệ với lãnh đạo, quan hệ với Thẩm phán khác, quan hệ với Thư ký và các cán bộ làm các bộ phận khác của Tòa án. Tất cả các mối quan hệ này đều thể hiện vai trò trung tâm của Thẩm phán.

1) Quan hệ giữa lãnh đạo Tòa án với Thẩm phán: Chánh án, Phó Chánh án là những người lãnh đạo, quản lý toàn bộ hoạt động của cơ quan, đảm bảo hoạt động của Toà án với vai trò là một cơ quan nhà nước. Thẩm phán chỉ với tư cách là nhân viên, cán bộ trong cơ quan và đây là mối quan hệ quản lý hành chính. Chánh án, Phó Chánh án chỉ có thể quản lý về mặt con người và trong hoạt động nghiệp vụ thì không thể can thiệp vào công việc xét xử của Thẩm phán nhưng Thẩm phán phải chịu sự phân công công việc của lãnh đạo.

2) Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Thẩm phán: Đây là quan hệ mang tính chất tố tụng, trong hoạt động xét xử Thẩm phán hoàn toàn độc lập không bị phụ thuộc vào bất cứ ai cho dù là lãnh đạo Tòa án. Chánh án, Phó Chánh án cũng là Thẩm phán, khi tham gia hoạt động tố tụng thì các Thẩm phán đều có những quyền và nghĩa vụ giống nhau theo quy định của tố tụng.

3) Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Hội thẩm nhân dân: Hội thẩm nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của UBMTTQ cùng cấp, công tác Hội thẩm là công tác kiêm nhiệm họ không phải cán bộ Tòa án nhưng chịu sự phân công của Chánh án. Hội thẩm là những người đại diện cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử với mục đích đảm bảo tính dân chủ, Hội thẩm cũng có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ,

tham gia xét xử và khi xét xử vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm phán và Hội thẩm thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm là mối quan hệ độc lập, tính độc lập ở đây thể hiện trên hai phương diện: độc lập với các cá nhân khác và độc lập với chính những thành viên trong Hội đồng xét xử. Nhưng trong hoạt động xét xử thì vai trò của Thẩm phán vẫn là trung tâm, được thể hiện trong toàn bộ quá trình xét xử từ phần thủ tục đến phần tuyên án.

4) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án: Điều 197 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 (Điều 47 BLTTHS sửa đổi năm 2015) quy định Thư ký được Chánh án phân công tiến hành tố tụng, giúp Thẩm phán trong công tác chuẩn bị phiên tòa; trước khi bắt đầu phiên tòa, phổ biến nội quy phiên tòa; kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án triệu tập…. Thư ký tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm trước pháp luật và Chánh án về những công việc của mình.

5) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên: Kiểm sát viên tham gia tố tụng theo sự phân công và chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện Kiểm sát. Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ công tác tư pháp trong thời gian tới quy định "Phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa.." [6]. Căn cứ vào kết quả điều tra, Kiểm sát viên có quyền lập bản cáo trạng, có quyền xét hỏi, tranh luận, rút toàn bộ hay một phần quyết định truy tố tại phiên toà. Kiểm sát viên không có quyền thay đổi nội dung buộc tội theo hướng tăng nặng đối với bị cáo. Ngoài chức năng trên Kiểm sát viên còn kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa, đây là hai chức năng gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử hỗ trợ cho chức năng thực hành quyền công tố. Nếu phát hiện bản án

có vi phạm pháp luật, Kiểm sát viên có quyền yêu cầu toà án khắc phục những vi phạm đó hoặc báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 không quy định cụ thể sự phối hợp này tuy nhiên đây là hai chức danh tư pháp chủ yếu trong tố tụng hình sự để tìm ra sự thật khách quan của vụ án tránh việc đưa ra phán quyết trái pháp luật, bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội.

6) Mối quan hệ giữa Thẩm phán và các chức danh bổ trợ tư pháp khác trong hoạt động tố tụng: Hoạt động bổ trợ tư pháp là hoạt động hỗ trợ cho cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, quyền hạn của mình. Các chức danh bổ trợ tư pháp bao gồm Giám định viên, Luật sư, Công chứng viên. Mỗi một chức danh này đều có vai trò, quyền và nghĩa vụ đặc trưng riêng nhưng có điểm chung là hoạt động của các chức danh này là cần thiết, tạo điều kiện thể hiện sự dân chủ, khách quan trong việc phán quyết của Thẩm phán. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Kiểm sát viên, Điều tra viên khác với mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp khác xuất phát từ vị trí tố tụng của các chức danh này.

Quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh bổ trợ tư pháp như tác giả trình bày ở trên chỉ phát sinh trong những vụ án cụ thể và ngược lại.

1.1.3. Các nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử và sự tác động đến vai trò hoạt động tố tụng Thẩm phán

Trong hoạt động tiến hành tố tụng, Thẩm phán thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự như: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa; nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật và trước Tòa án; nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án…

Trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự (Chương II Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2003) thì các nguyên tắc về xét xử chi phối

toàn bộ đến vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự, đó là: nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia; nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số, đó là ba nguyên tắc có tính chất quyết định đến quyền và nghĩa vụ của Thẩm phán trong khi thực hiện chức năng xét xử của mình.

1) Nguyên tắc khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Nguyên tắc trên được quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp 2013, khoản 1 Điều 9 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm" [36]. Với những quy định trên thì ngoài cơ quan Tòa án không một cơ quan nhà nước nào khác có chức năng xét xử và cũng không có quyền can thiệp bằng cách này hay cách khác vào hoạt động xét xử của Tòa án. Nội dung của nguyên tắc này là đảm bảo tính khách quan, công bằng trong các quyết định do Tòa án đưa ra, đề cao trách nhiệm và tính tự chủ của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội thẩm phải trực tiếp xem xét những chứng cứ của vụ án chứ không phải chỉ căn cứ vào hồ sơ của vụ án hay chứng cứ mà Viện kiểm sát đưa ra trong bản cáo trạng. Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét toàn diện tại phiên tòa và Hội đồng xét xử dựa vào kết quả phiên tòa, căn cứ vào các quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý kiến của quan điều tra, Viện kiểm sát.

Trong hoạt động xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân có thể tham khảo lắng nghe ý kiến của các bên, nhưng luôn phải thể hiện bản lĩnh của mình để xem xét mọi vấn đề một cách độc lập, không được để cho các ý kiến của bên ngoài làm thay đổi quyết định của mình.

Tại các Điều 185, Điều 244 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 (Điều 254 BLTTHS sửa đổi năm 2015) thì việc xét xử sơ thẩm hoặc trong những trường hợp đặc biệt của xét xử phúc thẩm thành phần Hội đồng xét xử gồm có Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì Hội thẩm nhân dân độc lập với Thẩm phán trong việc đưa ra ý kiến trình bày quan điểm của mình về vụ án.

Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử còn được thể hiện trong quan hệ giữa Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới. Toà án cấp trên không thể can thiệp hoặc bằng các biện pháp hành chính buộc Tòa án cấp dưới xét xử theo ý mình vì Tòa án cấp trên chỉ có quyền quản lý về mặt con người đối với Tòa án cấp dưới chứ không có quyền can thiệp vào việc giải quyết từng vụ án cụ thể của Tòa án cấp dưới. Trong hoạt động tố tụng Tòa án cấp trên không được định hướng hoặc gợi ý cho Tòa án cấp dưới để xét xử mà chỉ là giải thích về mặt nghiệp vụ để đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ khi áp dụng quy định pháp luật vào trong công tác xét xử.

Đảng lãnh đạo được thể hiện bằng việc đưa ra quan điểm, nguyên tắc, định hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đảng lãnh đạo về chính trị, tư tưởng về công tác tổ chức cán bộ trong ngành Tòa án. Đảng không can thiệp vào từng vụ án cụ thể mà chỉ ra đường lối chỉ đạo hoạt động xét xử trong từng giai đoạn.

Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, không có nghĩa là Thẩm phán, Hội thẩm được xét xử tuỳ tiện mà phải xem xét đối chiếu với sự việc thực tế xảy ra và trên cơ sở các quy định đó sẽ đưa ra các pháp quyết của mình về hành vi phạm tội của bị cáo một cách chính xác phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án, nếu độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến tình trạng xét xử một chiều, chủ quan duy ý chí:

Thẩm phán và Hội thẩm không một bước xa rời pháp luật, không có bất kỳ một sự lẩn tránh nào đối với pháp luật, không tha

Xem tất cả 96 trang.

Ngày đăng: 20/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí