Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 20


chuyển biến của nền kinh tế trong nước và bối cảnh quốc tế, Đại hội IX (2001) của Đảng tiếp tục có những nhận thức mới về CNH, HĐH, thừa nhận “kinh tế tri thức”, coi “từng bước phát triển kinh tế tri thức” là một phương hướng và nhiệm vụ quan trọng, là một nội dung mới của chiến lược CNH, HĐH của nước ta. Đặc biệt ở Đại hội X (2006), việc khẳng định cần rút ngắn quá trình CNH, HĐH trên cơ sở tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra, trên cơ sở tiềm năng và lợi thế so sánh của đất nước. Nói cách khác, việc đưa ra mô hình CNH, HĐH rút ngắn ở nước ta, đó là mô hình CNH, HĐH dựa vào hội nhập, từ bỏ quan điểm xây dựng một nền kinh tế khép kín, tự đảm bảo sản xuất tất cả những gì mình cần sang quan điểm sản xuất những gì mình có thể làm tốt nhất trong hệ thống phân công lao động quốc tế, và kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH đã khẳng định vai trò quyết định của Nhà nước trong định hướng cho sự nghiệp CNH, HĐH.

Thứ hai, bên cạnh chức năng định hướng, Nhà nước ta cũng thể hiện vai trò quan trọng trong tổ chức và chỉ đạo thực hiện CNH, HĐH. Thực tế, việc xác định chủ thể của CNH, HĐH không chỉ “độc tôn” là Nhà nước như giai đoạn trước đó mà là tất cả các doanh nghiệp, các thành phần trong nền kinh tế và việc chính thức thừa nhận sự cơ chế thị trường là cơ chế huy động và phân bổ các nguồn lực trong CNH, HĐH thể hiện ở những chính sách như: chính sách tạo khung khổ pháp lý cho phát triển các loại thị trường, cho sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách phát triển cơ sở hạ tầng... nhằm huy động và phân bổ sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cả trong và ngoài nước, thúc đẩy CNH, HĐH cùng những thành tựu đạt được đã chứng minh cho nhận định trên.

- Về những mặt hạn chế

Bên cạnh những thành tựu đạt được, nền kinh tế nước ta hiện vẫn còn nhiều mặt hạn chế, yếu kém, vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn và đứng trước nguy cơ tụt hậu trong phát triển. Điều đó cũng cho thấy


vai trò của Nhà nước đối với CNH, HĐH trong hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta thời gian qua còn bộc lộ khá nhiều hạn chế. Nói một cách khái quát, trong khi tư duy và nhận thức lý luận đã có bước phát triển mới theo hướng hiện đại thì ở cấp độ triển khai vẫn cơ bản dừng lại ở trình độ “công nghiệp hoá”. Thậm chí, ở một số nội dung hoạt động, nỗ lực và hành động thực tiễn vẫn còn mang dáng dấp tư duy của thời kỳ trước. Cụ thể:

Thứ nhất, về vai trò xác định nội dung chiến lược CNH, HĐH

Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã xác định con đường và bước đi cho CNH, HĐH nhưng mới chỉ dừng ở định hướng chung. Hiện nay Việt Nam vẫn thiếu một chiến lược CNH, HĐH mang tính tổng thể với những mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn, đặc biệt là còn thiếu nhiều chiến lược phát triển các ngành. Đồng thời, vấn đề lượng hoá các mục tiêu CNH, HĐH chưa được chú trọng, chưa làm rõ những tiêu chuẩn của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, chưa xác định Việt Nam còn khoảng cách bao xa và phải tập trung vào những mặt nào để thực hiện được mục tiêu đề ra.

Thứ hai, về vai trò chỉ đạo, điều hành của Nhà nước trong CNH, HĐH

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

Những mặt hạn chế trong chỉ đạo, điều hành của Nhà nước trong quá trình CNH, HĐH cũng thể hiện khá rõ:

- Công tác quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập và đã ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình CNH, HĐH. Thực tế cho thấy, công tác quy hoạch cùng công tác kế hoạch hoá có vai trò rất quan trọng trong số các công cụ can thiệp, điều tiết của Nhà nước ta đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng. Tuy nhiên, tình trạng thiếu tính đồng bộ và tính hệ thống hiện vẫn là khiếm khuyết lớn nhất của các bản quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội theo lãnh thổ.

Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 20

Thực tế, định hướng phát triển các ngành, lĩnh vực nêu ra trong các bản quy hoạch còn tương đối tách rời nhau và chưa ăn khớp với cơ cấu kinh tế đã lựa


chọn. Việc xử lý mối quan hệ liên ngành và mối quan hệ liên vùng trong quy hoạch chỉ mới dừng ở phương pháp luận, chưa có những luận chứng rõ ràng, trong đó đặc biệt chưa đề cập xa hơn các mối quan hệ liên vùng về luồng trao đổi vốn, lao động, thông tin, tiền tệ... Một điểm đáng chú ý là cơ cấu dự định cho tương lai có ý nghĩa về mặt định tính hơn là định lượng nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường nhưng trong thực tế những chỉ tiêu quy hoạch định lượng còn nhiều khiến cho các mục tiêu quy hoạch có tính chất cứng nhắc. Khi nghiên cứu cơ cấu kinh tế, luận chứng khả năng phát triển các sản phẩm chủ lực chưa được đề cập sâu, chưa đánh giá được tính hiệu quả của cơ cấu hiện tại và tác động của cơ cấu đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Sự phân cấp trong quá trình kế hoạch hoá chưa rõ, đặc biệt là phân cấp về tài chính. Công tác dự báo và phân tích còn rất yếu, nhất là dự báo thị trường, thể hiện qua tính chất “tĩnh” của hệ thống mục tiêu, bất cập với thực tế biến động của thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra, trong thực tế còn biểu hiện sự xem nhẹ việc thực thi quy hoạch. Hiện nay ở nước ta vẫn thiếu một cơ chế giám sát, tổng kết và điều chỉnh việc thực hiện quy hoạch, đặc biệt thiếu cơ chế điều phối ở cấp vùng, thiếu một hệ thống pháp lý, chính sách; phương thức tổ chức, biện pháp chế tài đi kèm, đảm bảo các giải pháp đó được thực thi.

- Việc xây dựng và ban hành thể chế pháp luật cần thiết cho sự vận hành và phát triển của kinh tế thị trường chưa kịp thời và đồng bộ. Thực tế cho thấy, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta còn nhiều vướng mắc:

i) Hệ thống thị trường ở nước ta phát triển chậm và chưa đồng bộ. Thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ phát triển chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Thị trường ngầm, thị trường phi chính thức ở nước ta còn ở quy mô lớn và thị trường còn bị chia cắt. Một đặc điểm nữa của hệ thống thị trường ở nước ta là tính độc quyền còn tương đối cao, cả độc quyền mua và độc quyền bán được thiết lập, duy trì bằng các biện pháp hành chính ở phạm vi toàn quốc hoặc ở các địa phương. Thị trường các sản phẩm


quan trọng như xi măng, xăng dầu, phân bón, viễn thông, hàng không... là các thị trường bị chi phối ở mức độ khác nhau bởi doanh nghiệp độc quyền. Tính độc quyền còn thể hiện ở hoạt động của nhiều tổng công ty nhà nước hay các tập đoàn theo mô hình khép kín, tự cấp, tự túc hoặc trường hợp các thành viên cùng nhau thoả thuận hoặc khống chế về sản lượng, giá cả.

Tình trạng thị trường bị chia cắt, phân đoạn, thị trường ngầm, thị trường phi chính thức còn khá phổ biến và tính độc quyền một mặt có nguyên nhân từ trình độ phát triển thấp của thị trường và của nền kinh tế nhưng có phần không nhỏ do có nhiều quy định và can thiệp hành chính của các cơ quan nhà nước các cấp, cản trở hoặc làm biến dạng hoạt động của cơ chế thị trường. Trong hệ thống thị trường ở nước ta, các chính sách của Nhà nước hoặc chỉ có tác dụng hạn chế ở quy mô nhỏ; hoặc bị triệt tiêu tác dụng; hoặc chính sách bị biến dạng và không phát huy tác dụng như dự tính, thậm chí còn tạo tác dụng phụ, trái ngược với mục tiêu, ý định chính sách ban đầu [19, tr. 193].

ii) Chủ thể tiến hành CNH, HĐH còn bị phân biệt đối xử. Thời gian qua, mặc dù lợi ích thực tế mà sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân mang lại cho nền kinh tế rất lớn nhưng khu vực kinh tế này vẫn bị phân biệt đối xử về mặt chính sách. Tình trạng bất bình đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và tình trạng độc quyền đã khiến cho cạnh tranh khó phát huy tác dụng tích cực thúc đẩy sự phát triển. Điều đó cho thấy, quan điểm phát triển các thành phần kinh tế, tư duy phát triển trong cơ chế thị trường, chiến lược và chính sách của nhà nước chuyển biến quá chậm so với sự vận động, thay đổi của đời sống thực tiễn và so với yêu cầu phát triển.

iii) Cơ chế vận hành nền kinh tế chậm khắc phục tính phi thị trường. Nhà nước còn sử dụng quá nhiều công cụ hành chính để can thiệp vào nền kinh tế, còn ôm đồm nhiều chức năng mà thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn trong khi chưa tạo đủ nền pháp quyền. Nhìn chung, hệ thống luật pháp kinh tế ở nước ta vẫn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ. Chất lượng soạn thảo, xây dựng và thông qua


luật pháp chưa cao. Nhiều Luật vừa ban hành đã phải bổ sung, thay đổi. Một số Luật còn chờ Nghị định mới có hiệu lực… Nhiều văn bản dưới luật không được ban hành kịp thời và thiếu nhất quán đã gây cản trở trong quá trình thực hiện. Cải cách hành chính diễn ra chậm, bộ máy quản lý vận hành chưa hiệu quả.

Nhìn chung, các loại thị trường ở nước ta đã từng bước được hình thành tuy nhiên sự hình thành chủ yếu bắt nguồn từ các chính sách, biện pháp cởi trói, tự do hoá nhưng một số loại thị trường còn thiếu tính công khai, minh bạch, thiếu sự hỗ trợ và thúc đẩy của Nhà nước. Cho đến nay, hành lang pháp lý cho các loại thị trường đã được hình thành nhưng vẫn tồn tại một số bất cập đã cản trở sự phát triển đồng bộ mang tính liên kết giữa các loại thị trường thể hiện ở tính phiến diện trong nội dung điều chỉnh với một số loại thị trường, tính tách biệt trong quá trình điều chỉnh pháp luật đối với từng loại thị trường, chưa tạo dựng được các mối liên hệ cơ bản về pháp lý giữa các loại thị trường với nhau. Hậu quả là tiến trình đổi mới và phát triển thể chế diễn ra chậm, không đồng bộ và chưa đáp ứng được yêu cầu.

- Vai trò quản lý nhà nước về các nguồn lực quốc gia (bao gồm cả tài chính quốc gia, đất đai, tài nguyên, ngân sách nhà nước…) còn nhiều yếu kém đã dẫn đến tình trạng lãng phí và thất thoát nhiều.

Chính sách tài chính - tiền tệ còn nặng về huy động vào ngân sách để đầu tư và tiêu dùng theo phương thức trực tiếp, chưa hoàn toàn thoát khỏi tính bao cấp. Ngân sách nhà nước còn thất thoát nguồn thu khá lớn do cơ chế quản lý thu qua thuế còn lỏng lẻo. Hệ thống thuế chưa được hoàn chỉnh, chính sách thuế chưa chú trọng đến bồi dưỡng nguồn thu. Việt Nam vẫn thiếu một chiến lược khai thác và động viên nguồn lực tài chính từ khu vực dân cư hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Việc sử dụng nguồn lực, tài sản quốc gia và tài sản công còn nhiều lãng phí, thất thoát. Nguyên nhân là do hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên đất, nước, khoáng sản chưa đồng bộ.


- Về bất cập trong chính sách đầu tư


Chính sách đầu tư của Nhà nước ta thời gian qua vẫn chưa thực sự gắn kết với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Hoạt động đầu tư phát triển ở nước ta thời gian qua thể hiện một số đặc trưng nổi bật: i) Dựa mạnh vào khai thác tài nguyên; ii) Định hướng phát triển theo chiều rộng; iii) Xu thế phát triển một cơ cấu ngành hướng nội - thay thế nhập khẩu; iv) Xu hướng phát triển các ngành sử dụng nhiều vốn hơn là sử dụng nhiều lao động và có định hướng công nghệ cao.

Về cơ bản trong chính sách đầu tư, tư tưởng tự cấp tự túc và bảo hộ tuy đã được khắc phục một bước nhưng vẫn thể hiện khá rõ nét. Thứ nhất, một số chính sách của nhà nước thể hiện rõ tư tưởng bảo hộ các mặt hàng đã đủ khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước. Trong nội dung một số quy hoạch hoặc kế hoạch cân đối lớn, cân đối ngành, hạn ngạch và các biện pháp phi thuế quan khác thể hiện rõ điều đó. Thực chất đây là những biện pháp bảo hộ, là một biến dạng của chế độ tự cung tự cấp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Thứ hai, trong chính sách đầu tư, hình thành cơ cấu sản xuất ở phạm vi các địa phương cũng thể hiện tư tưởng này. Các dự án mang tính “phong trào” ở nhiều địa phương như xây dựng nhà máy xi măng, mía đường, bia, nước giải khát... để phục vụ tiêu dùng tại chỗ; xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp... mà về cơ bản, các dự án này dựa vào nguồn vốn nhà nước, không chịu sự điều tiết thị trường trong việc định hướng cơ cấu, không xét đến hiệu quả và năng lực cạnh tranh, không dựa vào nguyên tắc “khai thác, phát huy lợi thế so sánh”, hầu như không có sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân với tư cách chủ đầu tư, và ít chú ý đến mục tiêu tạo việc làm. Đáng chú ý là đầu tư nhà nước thời gian qua tăng lên nhanh nhưng quá dàn trải và phân tán; tỷ lệ thất thoát lên tới từ 20% đến 30% giá trị công trình; tình trạng nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản rất lớn, chủ yếu là giao thông, thuỷ lợi. Tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước lại bao trùm lên phần lớn các hoạt động của nền kinh tế, bị biến dạng thành hình thức bao cấp mới trong đầu


tư có nguồn gốc từ ngân sách, tình trạng bảo hộ, độc quyền trong đầu tư tín dụng nhà nước vẫn còn đậm nét. Nói chung, chính cơ chế bảo hộ đã không khuyến khích đầu tư phát triển các ngành lẽ ra rất cần như các ngành công nghiệp phụ trợ, các ngành sản xuất và cung ứng nguyên liệu mà lại tập trung chú ý sản xuất các sản phẩm cuối cùng. Hậu quả là cơ cấu công nghiệp chế tạo thời gian qua đã không thể khai thác có hiệu quả thế mạnh về nguyên liệu nội địa mà thường có xu hướng nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài để phục vụ sản xuất. Điều này thể hiện rõ ở nhiều ngành công nghiệp Việt Nam như công nghiệp ô tô, xe máy, thậm chí ngay cả một số ngành công nghiệp có giá trị xuất khẩu lớn như công nghiệp dệt may, công nghiệp sản xuất các sản phẩm điện tử, điện lạnh...

Như vậy, về phương diện tư duy chính sách, nhiều vấn đề quan trọng, nhất là vấn đề việc làm, chuyển dịch lực lượng lao động từ khu vực nông nghiệp và các ngành dịch vụ có năng suất thấp sang khu vực công nghiệp chế biến và dịch vụ có giá trị gia tăng cao hiện vẫn thiếu một quan điểm chính sách tổng thể, có tầm chiến lược rõ ràng để từ đó đưa ra được một chương trình đồng bộ, có hệ thống, nhất quán và dài hạn. Nhiều chính sách của nhà nước chưa thực sự tạo ra hệ thống đòn bẩy thúc đẩy sự phân bổ nguồn lực nhằm hình thành cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế so sánh của đất nước và cơ cấu tiêu dùng xã hội. Sự thiên lệch trong cơ cấu đầu tư đã dẫn đến sự thiên lệch trong cơ cấu ngành kinh tế. Hậu quả tất yếu là hiệu quả kinh tế không cao, thậm chí là thấp và khả năng cạnh tranh thấp kém ngay ở thị trường nội địa.

- Về chính sách hội nhập kinh tế quốc tế

Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở nước ta chưa thực sự gắn kết với việc hoàn thiện thể chế, chính sách và cải cách cơ cấu nền kinh tế; đặc biệt là chưa thực sự gắn với thực trạng và yêu cầu của CNH, HĐH ở nước ta. Thực tế cho thấy, hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề cần thiết mang tính khách quan nhưng điều quan trọng hơn là hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà trước hết là các mục tiêu của CNH, HĐH. Những


thành tựu trong hội nhập kinh tế quốc tế đã khẳng định những nỗ lực to lớn của Việt Nam nhưng xét về tổng thể, việc thực hiện những cam kết trong hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đặt các ngành kinh tế, các doanh nghiệp, các sản phẩm của Việt Nam đứng trước những thách thức vô cùng to lớn để tồn tại và phát triển khi năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế do ta vẫn thiếu sự chuẩn bị những điều kiện cần thiết để bước vào công cuộc cạnh tranh khốc liệt, không chỉ ở thị trường trong nước mà cả thị trường nước ngoài.

- Về những bất cập trong chính sách giáo dục - đào tạo

Thực trạng yếu kém của nguồn nhân lực ở nước ta có nguyên nhân quan trọng từ những bất cập của hệ thống giáo dục: Chất lượng giáo dục đào tạo thấp hơn nhiều so với nhiều nước trong khu vực; Quy mô đào tạo tăng không cân đối với điều kiện đảm bảo chất lượng; Cơ cấu đào tạo bất hợp lý; Năng lực thực hành của người học còn yếu; Chưa chú ý đào tạo các ngành nghề kỹ thuật cao. Nhiều nghiên cứu đã chỉ rõ, quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở nước ta còn nhiều bất cập, thậm chí sai lầm nên chưa tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về phát triển nguồn nhân lực. Chi tiêu của hệ thống giáo dục hiện nay kém minh bạch và lãng phí. Tỷ lệ ngân sách dành cho giáo dục - đào tạo trong GDP ở nước ta cao hơn hầu hết các nước trong khu vực nhưng vấn đề chủ yếu là hiệu quả sử dụng nguồn lực này còn thấp [12, tr. 32]. Trong thực tế, hướng cải cách của cả hai hoạt động đào tạo nghề và giáo dục phổ thông ở nước ta thời gian qua đều thiếu một định hướng chiến lược chuẩn. Nguyên nhân là do định hướng cải cách giáo dục - đào tạo thiếu tầm nhìn chiến lược cơ cấu kinh tế và không dựa vào chiến lược đó, quan điểm kết nối giáo dục - đào tạo với thị trường chưa được chú trọng và đúng hướng, chưa được đặt trong tổng thể chiến lược phát triển kinh tế mà trụ cột là chiến lược đầu tư. Các nhà thiết kế chương trình cải cách giáo dục đã không xác định rõ và đúng mối quan hệ giữa xu thế phát triển của thời đại mà nước ta đang cố gắng gia nhập vào với yêu cầu đặt ra cho công cuộc cải cách giáo dục cho nên thực tiễn cải cách về cơ bản mang tính chỉnh sửa cục bộ, chắp

Xem tất cả 227 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí