Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 21


vá. Với hệ thống giáo dục đại học, hệ thống các trường đại học Việt Nam được xem như kém nhất so với hầu hết các nước đang phát triển ở khu vực Đông Nam Á. Trong hệ thống giáo dục đại học của Việt Nam bộc lộ rõ một số vấn đề nổi cộm như quyền tự chủ, nguồn tài trợ, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, đề bạt... Thực tế cho thấy, nguồn tài trợ của các trường đại học hiện nay chủ yếu từ học phí và các khoản hỗ trợ của nhà nước còn hạn hẹp nên nguồn tài chính dành cho việc nâng cấp, trang bị cơ sở vật chất; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên... luôn trong tình trạng thiếu hụt. Nhìn chung, nếu không có những biện pháp cần thiết để cải cách giáo dục thì chắc chắc Việt Nam sẽ không thể đạt được những mục tiêu đề ra trong CNH, HĐH.

- Về những hạn chế từ chính sách khoa học - công nghệ

Quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước chưa được quán triệt đầy đủ để chuyển thành hành động thực tế của các cấp chính quyền, các Bộ, ngành, địa phương. Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ chậm được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật; Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà nước thông qua các ưu đãi, độc quyền trong một số lĩnh vực, khiến cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước ít quan tâm đến nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh.

- Những bất cập trong chính sách phát triển hạ tầng cơ sở bao gồm: i) Thiết kế lộ trình phát triển cơ sở hạ tầng trong toàn bộ quá trình CNH, HĐH chưa hợp lý, chưa đạt tới yêu cầu của yếu tố đóng vai trò tiền đề của quá trình CNH, HĐH; ii) Tính cân đối tổng thể của việc phát triển cơ sở hạ tầng và giữa cơ sở hạ tầng với các ngành kinh tế chưa đảm bảo, gây lãng phí lớn; iii) Chưa thực sự chú trọng huy động, khai thác các nguồn lực đa dạng của xã hội mà vẫn duy trì cách tiếp cận độc quyền nhà nước trong xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng. Chính sự yếu kém của cơ sở hạ tầng đã hạn chế việc giảm chi phí để nâng


cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam không chỉ trên thị trường quốc tế mà ngay ở thị trường nội địa. Ngoài ra, nó còn làm cho sự liên kết giữa các thị trường cũng như hiệu quả hoạt động của thị trường còn thấp.

Đánh giá một cách tổng quát, bên cạnh một số mặt được, vai trò của Nhà nước đối với CNH, HĐH ở nước ta thời gian qua vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là trong công tác chỉ đạo, điều hành. Nhà nước ta chưa thực sự phát huy được vai trò chủ thể sáng tạo tích cực trong tạo dựng và quản lý nền kinh tế. Trong điều hành vĩ mô, Nhà nước vẫn còn duy trì cách quản lý theo tư duy của nền kinh tế kế hoạch hoá có tính áp đặt, chưa phù hợp với quy luật thị trường. Một số chương trình, dự án đầu tư xây dựng của Nhà nước hiệu quả thấp và có tình trạng thất thoát, lãng phí, gây tổn thất cho nền kinh tế.

Thực tế cho thấy, Nhà nước đang ở trong thế bị giằng xé do can thiệp quá sâu và quá rộng vào các hoạt động của nền kinh tế, ôm đồm quá nhiều chức năng của thị trường trong khi đó lại chưa tập trung vào việc thực hiện vai trò quản lý vĩ mô. Hơn nữa, còn tình trạng có quá nhiều cơ quan quản lý Nhà nước nhưng số lượng và chất lượng các dịch vụ công còn quá thiếu và yếu. Do vậy, để tiến trình CNH, HĐH diễn ra đúng hướng, thực sự đi vào chiều sâu cần phải có sự thay đổi mạnh hơn nữa về vấn đề vai trò của Nhà nước trong hoạt động thực tiễn.

3.2. MỘT SỐ ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA VIỆT NAM VÀ ĐÀI LOAN KHI THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

3.2.1. Một số điểm tương đồng

- Về trình độ phát triển kinh tế

Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam thời gian gần đây có nhiều điểm tương đồng với Đài Loan những năm 1950, 1960 khi bước vào công nghiệp hoá.


Cả hai nền kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá cao. Tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành công nghiệp Việt Nam thời gian qua về cơ bản tương tự như Đài Loan trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, nhưng tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành dịch vụ của Việt Nam còn thấp hơn khá nhiều so với Đài Loan trong thời kỳ so sánh.

Bảng 3.6: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam và Đài Loan



Thời gian

GDP

Công nghiệp

Nông nghiệp

Dịch vụ

Việt Nam

1991-2004

7,48

11,97

4,06

6,99


Đài Loan

Thập kỷ 1950

7,60

10,70

4,80

10,0

Thập kỷ 1960

9,60

14,70

4,10

9,10

Thập kỷ 1970

8,80

12,50

1,60

8,30

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.

Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 21

Nguồn: Dẫn theo: “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam”, Bùi Tất Thắng (chủ biên), Nhà xuất bản KHXH, 2006, tr. 121, 128, 145.

Hiện trạng cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam năm 2004 về cơ bản chỉ tương đương với Đài Loan ở vài thập kỷ trước. Nông nghiệp của Việt Nam hiện vẫn đóng góp khá lớn vào tăng trưởng GDP. Trong nội bộ ngành công nghiệp thì tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp chế biến so với tốc độ tăng GDP của Việt Nam tương tự như Đài Loan trong những năm 1950, 1960.

Ngoài ra, Việt Nam hiện nay về cơ bản cũng giống với Đài Loan trong giai đoạn bắt đầu công nghiệp hoá đó là chủ yếu dựa vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, trình độ kỹ thuật thấp, quy mô sản xuất nhỏ. Phần lớn máy móc thiết bị và nguyên liệu phục vụ cho sản xuất đều phải nhập khẩu. Nhiều cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, trình độ chỉ dừng lại ở hình thức gia công. Tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu còn hạn chế, tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu là nông sản và sản phẩm chưa qua chế biến còn ở mức cao.


Bảng 3.7: Cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam và Đài Loan




Năm

Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

Cơ cấu

trong GDP

Thay đổi

bình quân năm

Cơ cấu

trong GDP

Thay đổi

bình quân năm

Cơ cấu

trong GDP

Thay đổi

bình quân năm

Việt Nam

1990

38,7

- 1,21%

22,7

+ 1,24%

38,6

-0,03%

2004

21,8

40,1

38,2


Đài Loan

1956

33,3


-0,93%

27,8


+1,2%

38,9


-0,13%

1980

7,6

56,6

35,8

Nguồn: Dẫn theo: “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam”, Bùi Tất Thắng (chủ biên), Nhà xuất bản KHXH, 2006, tr. 110.

Việt Nam thời gian gần đây và Đài Loan giai đoạn 1950 - 1980 có sự tương đồng về sự chuyển dịch cơ cấu lao động. Tốc độ giảm của tỷ trọng lao động nông nghiệp Việt Nam giai đoạn 2002 - 2004 về cơ bản đã tương đương với sự chuyển dịch cơ cấu lao động của Đài Loan trong giai đoạn 1950 – 1980.

Bảng 3.8: Chuyển dịch cơ cấu lao động ở Việt Nam và Đài Loan



Thời kỳ

Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

Lao động tăng thêm bình quân hàng năm

Việt Nam

2002 – 2004

-1,3

-3,8

3,8

Đài Loan

1956 – 1980

-4,3

3,6

1,4

Tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động


Việt Nam

2000

65,1

13,1

21,8

2004

58,7

17,4

23,9

Bình quân tăng, giảm/năm

-1,28

+0,86

+0,42


Đài Loan

1956

56,0

20,8

23,2

1980

19,5

47,3

33,2

Bình quân tăng, giảm/năm

-1,52

+1,1

+0,42

Nguồn: Dẫn theo: “Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam”, Bùi Tất Thắng (chủ biên), Nhà xuất bản KHXH, 2006, tr. 152, 156.


Như vậy, xét trên nhiều tiêu thức, Việt Nam bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH có khá nhiều điểm tương đồng với Đài Loan khi chuyển sang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.

- Về cơ chế kinh tế

Nhìn chung, cơ chế kinh tế ở Việt Nam hiện nay và Đài Loan trong thời kỳ công nghiệp hoá có nét tương đồng. Đó là, cùng phát triển nền kinh tế thị trường có sự can thiệp, điều tiết của nhà nước. Cả Việt Nam và Đài Loan đều thừa nhận cơ chế thị trường đóng vai trò quyết định việc phân bổ các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Còn nhà nước đóng vai trò tạo lập môi trường thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho thị trường thực hiện chức năng vốn có của nó một cách hiệu quả bằng những chính sách như từng bước tự do hoá kinh tế, tạo lập và phát triển các loại thị trường... Như vậy, sự định hướng và can thiệp, điều tiết của nhà nước bằng các chính sách kinh tế vĩ mô đóng vai trò quan trọng trong việc phát huy những mặt tích cực của cơ chế thị trường, hạn chế những mặt tiêu cực của nó nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.

- Về môi trường quốc tế

Môi trường kinh tế quốc tế hiện nay so với bốn thập kỷ trước khi Đài Loan bắt đầu công nghiệp hoá tuy có những thay đổi nhưng nền kinh tế thế giới vẫn tiếp tục phát triển theo xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế từ tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Là những nước và lãnh thổ đi sau, Việt Nam cũng như Đài Loan đều có cơ hội và điều kiện thuận lợi để thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và tiếp thu công nghệ mới để tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển, cấu trúc lại nền kinh tế, cải thiện hệ thống hạ tầng cơ sở kinh tế - kỹ thuật của nền kinh tế. Như vậy, Đài Loan trước đây cũng như Việt Nam hiện nay có khả năng vừa thực hiện CNH, HĐH theo bước đi tuần tự vừa có điều kiện nắm bắt công nghệ hiện đại để từng bước rút


ngắn khoảng cách chênh lệch so với các nước phát triển. Bên cạnh đó, khi thị trường thế giới và khu vực ngày càng được mở rộng theo xu hướng tự do hoá, hầu hết các nước đều xây dựng nền kinh tế mở sẽ cho phép các nước đi sau có thể khai thác lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế nhằm mở rộng xuất khẩu và tham gia có hiệu quả vào các chuỗi giá trị toàn cầu.

3.2.2. Một số điểm khác biệt

- Về chế độ chính trị - xã hội

Sau khi tách khỏi Đại lục, Đài Loan lựa chọn con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Trong thời gian trị vì của chính quyền Tưởng Giới Thạch, Đài Loan duy trì chế độ một đảng lãnh đạo mang tính chuyên quyền, độc đoán, nghiêm cấm mọi hình thức tổ chức, lập đảng phái ngoài Quốc dân đảng nhằm xây dựng cục diện chính trị ổn định trước những khó khăn nhiều mặt. Thực tế, trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, chiến lược tổng quát mà Đài Loan lựa chọn là chiến lược tăng trưởng kinh tế nhằm đem lại lợi ích cho một bộ phận thiểu số các nhà tư bản, xem nhẹ hoặc thậm chí bỏ qua những mục tiêu xã hội, nhất là vấn đề quyền lợi và thu nhập của người lao động. Chiến lược này có ưu điểm là tập trung được nguồn vốn để đầu tư cho một số ngành, một số lĩnh vực, một số vùng có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế cao, khả năng tái đầu tư lớn để nhanh chóng đưa Đài Loan bước vào thời kỳ cất cánh. Tuy nhiên, công nghiệp hoá vì mục tiêu này đã hy sinh lợi ích xã hội và nhiều khi cũng làm phức tạp vấn đề chính trị - xã hội. Sau khi Tưởng Giới Thạch mất, Đài Loan thực hiện chế độ đa đảng, dân chủ hoá trong đời sống chính trị. Nhiều tổ chức đảng đã ra đời như đảng Dân tiến, đảng Thân dân, Tân đảng… Sự hoạt động tự do của các đảng phái đã dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các đảng phái, các tổ chức chính trị về quan điểm về quyền lực. Do vậy đã gây ra những khó khăn trong việc thực thi các chính sách của chính phủ. Mặc dù vậy, về cơ bản Đài Loan vẫn duy trì được cục diện chính trị trong phạm vi lãnh thổ tương đối ổn định. Do những thành tựu


đạt được trong công nghiệp hoá, nhất là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã góp phần giải quyết các vấn đề xã hội ở giai đoạn sau đó.

Trong khi đó, Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế, Việt Nam luôn giữ được sự ổn định về chính trị - xã hội, tạo nền tảng cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra. Sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam được dựa trên quan điểm lấy hiệu quả kinh tế - xã hội là tiêu chuẩn cơ bản, phấn đấu vì “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Mục tiêu cao nhất của CNH, HĐH ở Việt Nam là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn liền với mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đây chính là cơ sở để lựa chọn phương án đầu tư phát triển, xác định cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần kinh tế. Do vậy, các chủ trương, chính sách và giải pháp đề ra vừa phải hướng đến mục tiêu đẩy mạnh phát triển kinh tế vừa nhằm giải quyết các vấn đề xã hội. Trong bối cảnh đó, khu vực kinh tế nhà nước ngoài chức năng làm nòng cốt cho CNH, HĐH, ở Việt Nam nó còn là công cụ để nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Về bối cảnh quốc tế

So với ba thập kỷ trước đây, bối cảnh quốc tế của CNH, HĐH ở Việt Nam hiện nay có nhiều khác biệt lớn so với Đài Loan khi bước vào công nghiệp hoá.

Một là, toàn cầu hoá kinh tế không còn là xu thế nữa mà ngày càng diễn ra mạnh mẽ, tác động đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội quả các quốc gia. Trong bối cảnh đó, phát triển kinh tế trở thành ưu tiên hàng đầu của mọi quốc gia. Do vậy, cạnh tranh kinh tế cũng ngày càng trở nên gay gắt. Tuy nhiên, trong bối cảnh các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế ngày càng trở nên sôi động, vai trò to lớn của các tổ chức thương mại, tài chính quốc tế như WTO, IMF, WB..., Việt Nam có thể tận dụng thời cơ để đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối


ngoại, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài, phát huy lợi thế trong nước để tham gia có hiệu quả vào trật tự phân công lao động trên phạm vi quốc tế góp phần thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.

Hai là, quá trình khu vực hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ và rộng khắp các châu lục. Đây là điểm khác biệt so với thời kỳ Đài Loan bước vào công nghiệp hoá. Sự ra đời các liên minh kinh tế khu vực vừa tạo điều kiện để tăng tốc độ tự do hoá thương mại, tăng cường hợp tác kinh tế giữa các nước thành viên để khai thác tối đa lợi thế của mình với các khu vực khác; vừa giúp các nước trong khu vực nâng cao khả năng cạnh tranh. Hiện nay, với việc là thành viên của ASEAN, ASEAN + 1, ASEAN + 3... Việt Nam có những điều kiện hơn hẳn Đài Loan thời kỳ trước đó trong việc mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực, đặc biệt là trong hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế.

Ba là, về quan hệ đối ngoại, trong những năm 1950 và 1960, Đài Loan nhận được sự ủng hộ về chính trị tương đối rộng rãi của Mỹ và các nước tư bản chủ nghĩa. Nhiều nước đã công nhận chính thể Quốc dân đảng và thiết lập quan hệ ngoại giao với Đài Loan. Nhưng đến những năm 1970, Đài Loan đã mất chân trong Liên hợp quốc và điều đó cũng đã gây rất nhiều khó khăn trong quan hệ quốc tế của Đài Loan. Trong bối cảnh đó, nhiều nước đã cắt đứt quan hệ ngoại giao với Đài Loan.

Như vậy, trên giác độ chính trị, chỉ một số rất ít nước công nhận Đài Loan có tư cách là một quốc gia. Vì vậy, trong quan hệ kinh tế quốc tế, việc đàm phán, thoả thuận gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế cũng như ký kết các hiệp định về thương mại và đầu tư đa phương sẽ có nhiều khó khăn hơn các quốc gia có chủ quyền. Với hoàn cảnh đó, chính phủ Đài Loan buộc phải thực hiện “đường lối ngoại giao thực dụng”, thông qua các hoạt động kinh tế, thương mại, văn hoá để tranh thủ sự ủng hộ của các nước.

Xem tất cả 227 trang.

Ngày đăng: 08/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí