chủ yếu, thay thế nhập khẩu đóng vai trò bổ sung. Để xây dựng một nền kinh tế có cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư tối ưu phải hướng vào những sản phẩm và dịch vụ có khả năng cạnh tranh, đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước cũng như thế giới. Nội dung chiến lược CNH, HĐH ở Việt Nam cần có sự kết hợp cân đối giữa hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, giữa sản xuất để xuất khẩu và sản xuất để thay thế nhập khẩu. Đó là yêu cầu cần thiết và có khả năng thực thi. Nói cách khác, chiến lược CNH, HĐH ở Việt Nam coi trọng sản xuất để xuất khẩu nhưng phải tính đến việc sử dụng, khai thác nguồn lao động, tài nguyên và thị trường trong nước. Trong điều kiện hiện nay, thị trường Việt Nam vẫn còn khả năng cho phép các ngành công nghiệp chế tạo định hướng thay thế nhập khẩu phát triển ở mức độ nhất định.
Thứ hai, điều chỉnh linh hoạt nội dung chiến lược CNH, HĐH theo sự thay đổi những lợi thế so sánh nhằm tạo lập cơ cấu ngành kinh tế năng động, hiệu quả hướng đến kinh tế tri thức. Thực tế, trước khi tiến hành tự do hoá thương mại Đài Loan đã có thời gian đáng kể thực hiện chính sách bảo vệ nền công nghiệp non trẻ và xây dựng tiềm lực công nghiệp. Khi các doanh nghiệp trong nước đã có khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp FDI thì cũng hạn chế được tình trạng các doanh nghiệp FDI thống trị hay có khả năng khống chế các ngành sản xuất hiện đại hay xuất khẩu. Cuối cùng, công nghiệp hoá được hoàn thành và các doanh nghiệp nội địa trở thành động lực tăng trưởng chính. Đó là cả một quá trình điều chỉnh nội dung chiến lược gắn với sự biến đổi về lợi thế so sánh của Đài Loan trong từng giai đoạn. Còn Việt Nam phải thực hiện tự do hoá thương mại chỉ một thời gian ngắn sau khi bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế khi còn nhiều hạn chế về khả năng tích luỹ, về tiếp thu công nghệ và những ngành công nghiệp phụ trợ còn kém phát triển nên cần có bước đi thích hợp.
Hiện nay ở nước ta cư dân và lao động còn tập trung khá lớn ở các vùng nông thôn thì một trong những nội dung vô cùng quan trọng là CNH, HĐH phải gắn liền với phát triển nông nghiệp, nông thôn và phải bắt đầu từ CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn. Điều đó có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, chú trọng phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và các ngành dịch vụ, tạo điều kiện cho việc chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ là một yêu cầu hết sức cấp thiết. Ở giai đoạn tiếp theo, Việt Nam cần tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, đồng thời, chuyển trọng tâm sang phát triển các ngành công nghiệp chế tạo có hàm lượng vốn lớn và công nghệ cao, tạo cơ sở cho sự phát triển mạnh các ngành dịch vụ chuyên môn cao để vươn mạnh ra thị trường thế giới.
Như vậy, hiện tại cần tiếp tục phát triển các ngành hiện có, các ngành truyền thống nhằm tận dụng cơ sở vật chất và lực lượng lao động, giải quyết việc làm, đáp ứng các nhu cầu cơ bản của nhân dân. Đương nhiên, các ngành này cũng phải liên tục đổi mới, nâng cao năng suất, khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Điều đó có nghĩa là tất cả các ngành công nghiệp hiện có cần chú trọng đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng giá trị sản xuất.
Trong xu thế CNH, HĐH của nước ta trong những năm tới cần sớm phát triển nhanh có chọn lọc các ngành kinh tế dựa vào tri thức và công nghệ cao nhằm tạo ra một số sản phẩm có tính cạnh tranh. Đây là điều Đài Loan đã thành công trong những năm cuối thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI. Do vậy, với nước ta, cần ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao, trước hết là công nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, cơ điện tử, vật liệu mới v.v... Việc phát triển các ngành này sẽ có tác dụng thúc đẩy đổi mới công nghệ trong tất cả các ngành và chuyển nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng nhanh hàm lượng kinh tế tri thức. Sự phát triển của công nghệ thông tin không những thúc đẩy đổi mới các doanh nghiệp, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất kinh doanh mà còn tạo điều kiện cho đổi mới tổ chức và quản lý theo phương pháp hiện đại để từng bước tiến vào nền kinh tế tri thức.
Kinh nghiệm Đài Loan cho thấy, từ một nền kinh tế lạc hậu nếu biết tranh thủ thời cơ, có chiến lược phát triển đúng đắn thì hoàn toàn có thể vươn lên và sớm khắc phục tình trạng kém phát triển, sớm tiến kịp các nước đi trước. Hiện nay, kinh tế tri thức đang hình thành trên thế giới và một lần nữa đang mở ra cơ hội mới cho nước ta đi tắt, đón đầu để thực hiện thành công CNH, HĐH.
Có thể bạn quan tâm!
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 20
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 21
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 22
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 24
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 25
- Vai trò của nhà nước đối với công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thời kỳ 1961-2003 - Bài học kinh nghiệm và khả năng vận dụng vào Việt Nam - 26
Xem toàn bộ 227 trang tài liệu này.
3.3.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội tạo động lực huy động các nguồn lực đa dạng trong dân cư và nước ngoài cho CNH, HĐH
Kinh nghiệm thực tiễn của Đài Loan cho thấy, phát triển kinh tế thị trường và thực hiện dân chủ hóa đời sống kinh tế - xã hội sẽ đóng vai trò tạo động lực huy động các nguồn lực tiềm tàng cho đầu tư phát triển. Nhà nước Đài Loan tạo điều kiện phát triển kinh tế thị trường và sử dụng cơ cấu kinh tế đa loại hình sở hữu với hai loại hình cơ bản là kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước đan xen vào nhau, cùng tồn tại và phát triển. Đây chính là sự thể hiện quan điểm của chính phủ Đài Loan là phải đảm bảo rằng nguồn lực sẽ được phân bổ cho những ai có khả năng sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất. Thực tế, ngay đối với việc tiếp cận thị trường nội địa, Nhà nước Đài Loan theo đuổi một chiến lược không phụ thuộc vào loại hình sở hữu mà phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh. Những doanh nghiệp nhà nước ở Đài Loan được thành lập để khuyến khích xuất khẩu và tăng cường năng lực cạnh tranh cho nền kinh tế, chứ không phải để tích luỹ vốn trên cơ sở được hưởng những độc quyền trên thị trường nội địa. Đồng thời, Đài Loan luôn coi các cơ sở kinh tế tư nhân nước ngoài trên lãnh thổ của mình là một bộ phận hữu cơ cấu thành nền kinh tế. Những cơ sở thuộc sở hữu của chủ đầu tư nước ngoài thường là các cơ sở lớn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, đầu tư nhiều vốn kết hợp với các cơ sở tư nhân nội địa phần lớn có quy mô nhỏ, sử dụng nhiều nhân công đã tạo nên một cơ cấu kinh tế có khả năng tập trung vốn đầu tư, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung tư bản, kết hợp được vốn trong nước với vốn nước ngoài.
Thực tế hơn 20 năm đổi mới ở nước ta, việc giải phóng và phát huy các nguồn lực cho đầu tư phát triển đóng vai trò quan trọng hàng đầu đem lại những thành tựu về tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bắt đầu từ việc nới rộng và giải phóng kiểm soát sản xuất kinh doanh, thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, cho phép tự do thành lập doanh nghiệp với các mô hình sản xuất kinh doanh đến việc hình thành và phát triển các loại thị trường đã tạo nên sự bùng phát của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhờ đó nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Năm 2005, đánh dấu một bước chuyển biến cơ bản về dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội với việc Nhà nước ban hành Luật đầu tư. Việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước, giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài sẽ góp phần thúc đẩy tự do kinh doanh, thu hút nguồn lực đa dạng trong và ngoài nước để thúc đẩy CNH, HĐH.
Tuy nhiên đến nay, thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta vẫn chưa thực sự tạo được môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực trạng này thể hiện ở các điều kiện kinh doanh và môi trường cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế, lực lượng kinh tế là không ngang nhau xét từ góc độ chính sách và thể chế. Nguyên nhân sâu xa là do cải cách hành chính diễn ra còn chậm, phân cấp quản lý còn chồng chéo giữa các bộ, ngành, từ trung ương đến địa phương.
Từ kinh nghiệm của Đài Loan và từ thực tiễn Việt Nam cho thấy, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội sẽ góp phần tạo động lực huy động mọi nguồn lực cho CNH, HĐH.
Việc thừa nhận sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau và nhiều loại hình sản xuất kinh doanh của nhiều thành phần kinh tế là một biểu hiện cụ thể của dân chủ hoá đời sống kinh tế. Thực hiện dân chủ hoá đời sống kinh tế - xã hội cũng có nghĩa là Nhà nước phải trả cho thị trường và doanh nghiệp những chức năng vốn có của nó, đồng thời, vai trò của Nhà nước cần chuyển từ chỗ
tham gia trực tiếp quá nhiều vào lĩnh vực đầu tư kinh doanh sang thực hiện cung cấp các thể chế, khuôn khổ pháp lý và các hàng hoá công cộng. Do vậy, Nhà nước cần thực hiện tốt nhiệm vụ hình thành đồng bộ thể chế kinh tế thị trường và cải cách khu vực kinh tế Nhà nước.
Thực tế cho thấy, việc Chính phủ đã đặt ưu tiên rất cao cho hoạt động tiếp tục và tích cực cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước là rất phù hợp với yêu cầu thực tiễn. Tuy nhiên, điều quan trọng vẫn là vấn đề nâng cao hiệu quả của những chính sách cụ thể từ phía Nhà nước. Để thực hiện được chức năng định hướng cho sự phát triển của nền kinh tế cần có các điều kiện chủ yếu: Thứ nhất, các doanh nghiệp Nhà nước phải đủ mạnh, hoạt động có hiệu quả trong cơ chế vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, có khả năng cuốn hút các loại hình doanh nghiệp khác trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cùng phát triển theo những mục tiêu đã xác định. Thứ hai, hoạt động của Nhà nước phải thật sự có hiệu quả để làm tốt chức năng định hướng và điều tiết các hoạt động kinh tế, sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô một cách linh hoạt và có hiệu quả, thực hiện những cân đối lớn, kết hợp kinh tế với xã hội phù hợp với từng bước phát triển của đất nước.
Do vậy, trong nội dung cải cách doanh nghiệp nhà nước trước hết cần sớm xoá bỏ độc quyền nhà nước trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh trừ các lĩnh vực liên quan đến ổn định chính trị, an ninh quốc phòng. Đồng thời, cần ngăn chặn có hiệu quả việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp. Doanh nghiệp Nhà nước cần và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, trong các ngành công nghệ cao mà doanh nghiệp tư nhân trong nước chưa có khả năng đảm nhận. Việc tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực nêu trên hoàn toàn không có nghĩa là hạn chế, ngăn cản sự tham gia của các thành phần kinh tế khác trái lại, cùng hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện để kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh vực dịch vụ kết cấu hạ tầng, các ngành công nghệ cao,
không hạn chế cạnh tranh của các thành phần kinh tế khác đối với doanh nghiệp nhà nước bằng các biện pháp hành chính.
Bên cạnh thực hiện cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước vẫn cần đặc biệt coi trọng phát triển kinh tế tư nhân. Việc duy trì và phân biệt đối xử với khu vực kinh tế tư nhân chắc chắn sẽ gây tổn hại nghiêm trọng đến sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam. Những năm qua, kinh tế tư nhân là một động lực chủ yếu để giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, xoá đói giảm nghèo và giải quyết các vấn đề xã hội, đồng thời cũng là động lực quan trọng cơ cấu lại nền kinh tế, tạo sức ép thúc đẩy việc nâng cao sức cạnh tranh, chất lượng và hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Thực tế, việc tái lập và phát triển kinh tế tư nhân trong những năm qua với chủ trương “tự do hoá kinh doanh”, “tự do hoá gia nhập thị trường” mới là điều kiện cần nhưng chưa đủ để huy động và phát triển các nguồn lực hiện có, tận dụng được các cơ hội phát triển và giải quyết được các vấn đề cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển. Vì vậy, các giải pháp hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, nhất là thị trường bất động sản, đi đôi với việc mở rộng quy mô “thị trường hàng hoá”, xây dựng kết cấu hạ tầng, cung cấp thông tin, hỗ trợ phát triển, nâng cao năng lực của các tác nhân thị trường sẽ góp phần hiện thực hoá “quyền tự do kinh doanh”. Thiếu thể chế mở rộng quy mô thị trường, thì “quyền tự do kinh doanh”, “tự do gia nhập thị trường” khó trở thành hiện thực. Bên cạnh đó cũng cần khẳng định rằng, những thành tựu và hạn chế của quá trình tái lập, phát triển kinh tế tư nhân không thể tách rời với quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, chỉ có tạo lập đồng bộ các loại thị trường mới tạo lập được môi trường khách quan cho các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát triển. Từ đó, “tự do hoá kinh doanh” và “tự do hoá tham gia thị trường” mới phát huy được tác dụng một cách đầy đủ tạo động lực thực sự cho sự huy động nguồn lực đa dạng cho CNH, HĐH.
Do vậy, trước mắt, để đẩy nhanh nhịp độ CNH, HĐH, Nhà nước cần tập trung vào các nội dung sau:
- Cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước đồng thời thiết lập mối quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho nhau giữa hai khu vực nhà nước và tư nhân. Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân phải được coi là một trong những động lực tăng trưởng, góp phần giải quyết việc làm, phân bổ và sử dụng các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường. Khu vực kinh tế nhà nước phải là lực lượng tạo nền tảng cho việc tiếp cận công nghệ hiện đại, tập trung vào phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, tạo lợi thế so sánh mới, đồng thời hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
- Để tạo điều kiện phát triển khu vực kinh tế tư nhân, Nhà nước cần nhanh chóng có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp này trong việc tiếp cận thông tin thương mại và công nghệ, trong việc huy động vốn và đặc biệt hỗ trợ các doanh nghiệp này trở thành những nhà cung ứng đầu vào cho các doanh nghiệp FDI. Việc trở thành những nhà cung ứng cho các doanh nghiệp FDI sẽ giúp các doanh nghiệp tư nhân có cơ hội được làm việc với những tiêu chuẩn chất lượng và môi trường kinh doanh quốc tế.
- Xã hội hoá mạnh hơn các lĩnh vực dịch vụ công ích và kinh doanh hạ tầng đô thị khác. Các quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh tế - xã hội cần hướng tới lợi ích phát triển của tất cả các doanh nghiệp và thành phần kinh tế. Chi đầu tư phát triển kinh tế và xã hội từ các nguồn ngân sách nhà nước cần đảm bảo sự bình đẳng cho các đối tượng thụ hưởng thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Cần coi trọng công tác đánh giá để kịp thời điều chỉnh, hoàn thiện chủ trương, chính sách và giải pháp phát triển kinh tế phù hợp với những thay đổi trong thực tiễn.
- Nhà nước cần chú ý đến quyền tự do kinh doanh của mọi thành phần kinh tế (kể cả những nhà đầu tư nước ngoài). Quyền tự do kinh doanh được hiểu
là hệ thống các quyền gắn với chủ thể kinh doanh bao gồm các quyền: được bảo đảm sở hữu đối với tài sản; tự do thành lập doanh nghiệp; tự do hợp đồng; tự do cạnh tranh theo pháp luật; tự định đoạt trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp.
- Đặc biệt, từ kinh nghiệm thành công của Đài Loan cho thấy, trong khu vực kinh tế tư nhân cần chú trọng phát triển loại hình DNVVN. Hiện nay, Việt Nam vẫn trong tình trạng dư thừa lao động, khả năng tích luỹ vốn chưa cao, trình độ công nghệ còn nhiều hạn chế cho nên trong quá trình CNH, HĐH cần hết sức chú trọng loại hình doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ. Việc khuyến khích phát triển loại hình DNVVN là giải pháp quan trọng nhằm huy động tối đa nguồn lực từ khu vực dân cư cho đầu tư phát triển. Bởi các doanh nghiệp loại này thường phản ứng nhanh nhạy hơn trước các cơ hội mới của thị trường tại chỗ, một phần do họ hiểu và gần gũi thị trường hơn, họ quan tâm đến các cơ hội nhỏ. Sự phát triển của loại hình DNVVN trong khu vực nông thôn sẽ góp phần phát triển nông thôn bởi chúng sẽ là cầu nối có hiệu quả giữa người nông dân và thị trường thế giới, làm thay đổi cách thức hoạt động của người nông dân, giúp người nông dân cải thiện chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm. Đồng thời, sự phát triển đó còn có khả năng tạo công ăn việc làm ở khu vực nông thôn. Điều đó là tiền đề then chốt để có thể phần nào thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giảm bớt sức ép di cư cho khu vực thành thị.
Thời gian qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách và biện pháp khuyến khích sự phát triển của các loại hình DNVVN nhưng kết quả đạt được còn nhiều hạn chế mà có những nguyên nhân quan trọng từ cơ chế, chính sách của Nhà nước. Do vậy, để đẩy mạnh CNH, HĐH, Nhà nước cần có những chủ trương và chính sách phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển. Đó là:
+ Hoàn thiện chính sách khuyến khích đầu tư thông qua những ưu đãi về vốn tín dụng, về điều kiện thuê đất...