Việc xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư và vấn đề đền bù giải tỏa để bàn giao đất cho các chủ đầu tư cũng là một vướng mắc làm chậm tiến độ triển khai thực hiện các dự án.
2.2.7. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh du lịch
Doanh thu là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tình hình hoạt động của ngành du lịch. Từ năm 2001 đến tháng 6/2009, sự gia tăng với tốc độ nhanh chóng số lượng du khách đến Bình Thuận đã mang lại nguồn thu lớn. Sự tiêu dùng nhiều hạng mục hàng hóa và dịch vụ du lịch khác nhau của du khách trong các chuyến tham quan như : đi lại, lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, mua sắm … giúp mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ của Bình Thuận. Doanh thu mang lại từ hoạt động du lịch là sự tổng hợp nguồn thu của nhiều ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau.
Sự phát triển của du lịch Bình Thuận không chỉ thể hiện ở sự gia tăng du khách, mức chi tiêu và số ngày lưu trú bình quân trên mỗi du khách cũng tăng lên. Đến năm 2008, số ngày lưu trú bình quân của du khách quốc tế là 3 ngày/khách và du khách trong nước là 1,7 ngày/khách; mức chi tiêu bình quân của du khách quốc tế và du khách trong nước lần lượt là 900.000 đồng/khách và 350.000 đồng/khách. Điều này đã làm tăng đáng kể doanh thu cho hoạt động du lịch Bình Thuận.
Bảng 2.12. Doanh thu hoạt động du lịch Bình Thuận giai đoạn 2001 – 2008 và 6 tháng đầu năm 2009
ĐVT : Triệu đồng
Tổng doanh thu | Trong đó | Tốc độ tăng trưởng (%) | |||
Lưu trú | Ăn uống | Dịch vụ khác | |||
2001 | 178.000 | 96.900 | 43.500 | 37.600 | - |
2002 | 226.000 | 124.300 | 56.500 | 45.200 | 26,97 |
2003 | 278.500 | 145.820 | 64.050 | 68.630 | 23,23 |
2004 | 361.000 | 188.440 | 83.750 | 88.810 | 29,62 |
2005 | 550.000 | 280.500 | 123.200 | 146.300 | 52,35 |
2006 | 803.740 | 402.680 | 192.900 | 208.160 | 46,13 |
2007 | 1.006.980 | 503.490 | 251.750 | 251.740 | 25,29 |
2008 | 1.208.700 | 601.586 | 298.800 | 299.614 | 19,17 |
6 tháng đầu 2009 | 826.916 | 412.062 | 201.184 | 213.670 | 68,41 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Di Tích Văn Hóa, Lịch Sử Tiêu Biểu Và Các Lễ Hội, Làng Nghề Truyền Thống Tại Bình Thuận
- Các Hình Thức Tổ Chức Hoạt Động Du Lịch Chủ Yếu Trên Địa Bàn Tỉnh Bình Thuận Từ Năm 2005 Đến Năm 2008
- Các Khu Du Lịch, Địa Điểm Tham Quan Tiêu Biểu Tại Bình Thuận
- Những Thành Tựu Và Tồn Tại Của Hoạt Động Du Lịch Tỉnh Bình Thuận Giai Đoạn 2001 – 2008
- Mục Tiêu Phát Triển Du Lịch Tỉnh Bình Thuận Đến Năm 2020
- Nhu Cầu Đào Tạo Lao Động Trực Tiếp Phục Vụ Du Khách Đến Năm 2020
Xem toàn bộ 143 trang tài liệu này.
Nguồn : [23,125; 24,8]
Đồ thị 2.3 : Doanh thu hoạt động du lịch Bình Thuận giai đoạn 2001 – 2008 và 6 tháng đầu năm 2009
1400000
1200000
1000000
800000
600000
400000
200000
0
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 6 tháng
đầu 2009
Trong giai đoạn 2001 – 2008, tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh thu từ hoạt động du lịch là 34,53%. Sự gia tăng doanh thu hoạt động du lịch góp phần vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Bình Thuận trong những năm vừa qua. Từ chỗ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn trong GDP Bình Thuận là chỉ từ 5% - 6% trong giai đoạn 1996 - 2000 thì đến nay du lịch đã chiếm khoảng 10% trong GDP. Sự phát triển không ngừng của hoạt động du lịch Bình Thuận cho thấy du lịch dần dần khẳng định vị thế là ngành công nghiệp mũi nhọn của toàn Tỉnh.
2.3. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG DU LỊCH ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2001 – 2008
2.3.1. Vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế tỉnh Bình Thuận
2.3.1.1. Góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình Thuận
Sự phát triển với tốc độ cao của du lịch Bình Thuận giai đoạn 2001 – 2008 kéo theo sự phát triển của rất nhiều ngành nghề liên quan mà giá trị của nó đều có những đóng góp nhất định vào sự gia tăng tổng sản phẩm xã hội của toàn Tỉnh. Trong giai đoạn này, kinh tế tỉnh Bình Thuận tăng trưởng với tốc độ trung bình là 13%/ năm, cao hơn so với mức tốc độ tăng trưởng bình quân của cả nước. Sự đóng góp của hoạt động du lịch vào GDP của Bình Thuận giai đoạn 2001 – 2008 được thể hiện trong bảng sau :
Bảng 2.13. Giá trị sản phẩm du lịch trong tổng sản phẩm xã hội tỉnh Bình Thuận giai
đoạn 2001 - 2008
2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | 2009 (*) | |
GDP toàn tỉnh (tỷ đồng) | 3.426,6 | 3.973,4 | 4.678,5 | 6.147,0 | 8.106,7 | 10.175,7 | 12.866,5 | 13.778,0 | 14.347,2 |
Giá trị sản phẩm xã hội của du lịch (tỷ đồng) | 178,3 | 226,2 | 278,5 | 361,46 | 550,9 | 803,4 | 1.027,0 | 1.208,7 | 1.504,3 |
Tỷ lệ đóng góp của du lịch vào GDP (%) | 5,2 | 5,7 | 6,0 | 5,9 | 6,8 | 7,9 | 8,0 | 8,8 | 10,5 |
Nguồn : [23,85] (*)Dự báo của Sở Văn hóa, Thể thao và du lịch Bình Thuận
Giai đoạn 1996 – 2000, do trình độ phát triển thấp, đầu tư vào hoạt động du lịch còn nhiều hạn chế nên những đóng góp của hoạt động du lịch vào tổng sản phẩm xã hội tỉnh Bình Thuận chỉ khoảng 3%, chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của Tỉnh. Trải qua hơn 10 năm phát triển, từ chỗ mang tính tự phát, trình độ chuyên môn hóa thấp, thì đến nay, du lịch đã dần dần khẳng định vị trí ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu ngành kinh tế của Bình Thuận, chiếm khoảng 9% trong GDP của Tỉnh.
2.3.1.2. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Bình Thuận theo hướng hiện đại hóa.
Sự phát triển của hoạt động du lịch là sự phát triển tổng hợp của các ngành giao thông vận tải, xây dựng, kinh doanh lưu trú, kinh doanh ẩm thực, viễn thông, thương mại, sản xuất hàng lưu niệm …. Phần lớn các ngành nghề này thuộc nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ. Vì vậy, trong giai đoạn 2001 – 2008, cơ cấu ngành kinh tế thay đổi theo hướng tỷ lệ sản xuất nông nghiệp giảm từ 39,44% xuống còn 24,97%; tỷ lệ ngành công nghiệp tăng từ 23,76% lên 34,23%; ngành dịch vụ tăng từ 36,8% lên 40,8%. Cơ cấu ngành kinh tế của Bình Thuận hiện nay phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong cả nước và góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của toàn Tỉnh.
Bảng 2.14. Cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2001 – 2008
Tỷ lệ ngành nông- lâm-thủy sản (%) | Tỷ lệ ngành công nghiệp-xây dựng (%) | Tỷ lệ ngành dịch vụ (%) | |
2001 | 39,44 | 23,76 | 36,8 |
2002 | 37,76 | 24,62 | 37,62 |
2003 | 36,5 | 25,84 | 37,66 |
2004 | 34,16 | 27,8 | 38,04 |
2005 | 31,95 | 29,27 | 38,85 |
2006 | 27,55 | 33,74 | 38,71 |
2007 | 25,61 | 33,68 | 40,71 |
2008 | 24,97 | 34,23 | 40,8 |
2009 (*) | 24,23 | 35,13 | 40,64 |
Nguồn : [18, 78-81; 24,2] (*) Dự báo của Sở Văn hóa, Thể thao và du lịch Bình Thuận
Đồ thị 2.4. Cơ cấu ngành kinh tế tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2001- 2008
Dịch vụ (%)
Công nghiệp-xây dựng (%) Nông-lâm-thủy sản (%)
100%
80%
60%
40%
20%
0%
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009
2.3.1.3. Góp phần tạo tiền đề về vốn, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh Bình Thuận
Sự phát triển của du lịch trong giai đoạn 2001 – 2008 với trình độ chuyên môn hóa ngày càng sâu đã đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao cho hoạt động du lịch Bình Thuận. Thông qua phát triển hoạt động du lịch, các nguồn tài nguyên của Tỉnh được quan tâm khai thác và sử dụng nhằm tạo nguồn vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên xã hội, nhân văn phong phú của Bình Thuận cũng dần dần trở thành đối tượng khai thác nhằm phục vụ cho hoạt động du lịch. Hiện nay, khi lực lượng sản xuất của Bình Thuận còn kém phát
triển, năng suất lao động thấp, tỷ lệ tích lũy vốn từ nguồn lao động thặng dư của Tỉnh còn rất khiêm tốn, thì giá trị kinh tế mang lại từ hoạt động khai thác tài nguyên du lịch góp phần nâng tỷ lệ tích lũy trong tổng sản phẩm xã hội từ 0% giai đoạn 1990 – 1995 lên 5,5% giai đoạn 1996 – 2005.
Khai thác tiềm năng du lịch sẵn có để phát triển hoạt động du lịch là phù hợp với chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam, đó là khai thác những lợi thế sẵn có nhằm tạo tiền đề vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ nguồn vốn tích lũy được chính quyền và nhân dân tỉnh Bình Thuận sẽ đầu tư phát triển nguồn nhân lực, xây dựng tiềm lực về khoa công nghệ, tạo ra những tiền đề cần thiết khác để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Tỉnh. Chi ngân sách nhà nước để phát triển kinh tế - xã hội Bình Thuận từ nguồn vốn của địa phương đã tăng từ 24% giai đoạn 1995 – 2000 lên 37% giai đoạn 2001 – 2005.
2.3.1.4. Đẩy mạnh phân công lao động xã hội, thúc đẩy kinh tế hàng hóa ở Bình Thuận phát triển.
Thực tiễn phát triển hoạt động du lịch trong khoảng 10 năm qua đã tác động mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và thúc đẩy sự phân công lao động xã hội tỉnh Bình Thuận, quá trình lao động sản xuất của Tỉnh được chuyên môn hóa thành nhiều ngành nghề khác nhau với trình độ ngày càng cao, tạo điều kiện tiền đề đẩy mạnh sự phát triển của kinh tế hàng hóa của Tỉnh. Trong sản xuất công nghiệp, hoạt động du lịch kích thích sự phát triển của ngành xây dựng, giao thông vận tải, sản xuất hàng hóa tiêu dùng… ; trong nhóm ngành dịch vụ, du lịch kéo theo sự phát triển của bưu chính viễn thông, thông tin liên lạc, bảo hiểm, y tế, dịch vụ vui chơi giải trí, thương mại, xuất nhập khẩu … và cả sản xuất, chế biến nông - lâm - thủy sản, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ trong nông nghiệp.
Theo thống kê của Sở Công thương tỉnh Bình Thuận, tỷ lệ hàng hóa trong tổng sản phẩm xã hội tỉnh Bình Thuận tăng từ 54% năm 2001 lên 73% năm 2008. Có thể nói, hoạt động du lịch là một trong những yếu tố quan trọng giúp chuyển biến quá trình lao động sản xuất của Bình Thuận từ chỗ mang nặng tính tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa.
2.3.1.5. Tạo điều kiện mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại tại Bình Thuận.
Sự phát triển của hoạt động du lịch góp phần mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại của Bình Thuận với các nước trên thế giới, cụ thể như sau :
Thứ nhất, hoạt động du lịch Bình Thuận đã thu hút nhiều dự án đầu tư du lịch từ các nhà đầu tư nước ngoài như Thụy Sỹ, Đài Loan, Mỹ, Pháp, Nhật, Ca-na-da … ở nhiều lĩnh vực như du lịch, xây dựng, y tế, tài chính, công nghiệp chế biến, thương mại, dịch vụ …
Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác sản xuất, hợp tác phát triển khoa học công nghệ, hợp tác đào tạo lao động giữa Bình Thuận và các nước trên thế giới. Hiện nay, Bình Thuận đang có 6 khu công nghiệp được đầu tư công nghệ hiện đại, với phần vốn đầu tư nước ngoài chiếm 67%.
Thứ ba, với 12% khách hàng của hoạt động du lịch Bình Thuận là người nước ngoài, Bình Thuận hoàn toàn có điều kiện phát triển hoạt động xuất khẩu tại chỗ. Trong năm 2008, hoạt động đón tiếp du khách nước ngoài đã mang lại nguồn thu ngoại tệ cho Bình Thuận đến 11,7 triệu USD.
Thứ tư, cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch, vận tải quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu cũng có điều kiện phát triển, tạo nên sự đa dạng trong các hình thức kinh tế đối ngoại hiện nay của Bình Thuận.
2.3.1.6. Tạo việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp
Khả năng thu hút nguồn lao động của hoạt động du lịch Bình Thuận thể hiện trong bảng sau :
Bảng 2.15 : Số người lao động trong hoạt động du lịch Bình Thuận giai đoạn 2001-2008.
2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | |
Lực lượnglao động (người) | 456.745 | 467.250 | 477.997 | 456.745 | 466.793 | 477.063 | 487.463 | 497.456 |
Lao động trong ngành du lịch (người) | 17.834 | 19.130 | 20.885 | 21.756 | 22.540 | 25.874 | 27.021 | 27.560 |
Tỷ lệ lao động trong ngành du lịch (%) | 3,9 | 4,1 | 4,4 | 4,8 | 4,8 | 5,4 | 5,5 | 5,5 |
Nguồn : [23, 69]
Qua bảng trên, lực lượng lao động trong những hoạt động trực tiếp phục vụ du lịch tăng từ 3,9% năm 2001 lên 5,5% năm 2008. Như vậy, nhu cầu về lao động trong hoạt động du lịch trong những năm vừa qua đã tạo ra khối lượng việc làm cho đông đảo người lao động của tỉnh Bình Thuận, góp phần giảm tỷ lệ thấp nghiệp của Tỉnh từ 6,1% năm 2001 xuống còn 4,8% năm 2008.
2.3.2. Vai trò của du lịch đối với sự phát triển xã hội tỉnh Bình Thuận
2.3.2.1. Góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân
Hoạt động du lịch phát triển, một mặt, tạo cơ hội cho mọi tầng lớp dân cư địa phương tham gia kinh doanh các dịch vụ du lịch. Nhờ vậy, họ có cơ hội nâng cao thu nhập, tăng khả năng chi tiêu cho các hàng hóa và dịch vụ sinh hoạt hằng ngày. Hiện nay, số hộ gia đình có ti vi đạt 97%, số hộ có tủ lạnh, máy giặt đạt 69%. Khả năng chi trả cho các nhu cầu tinh thần cũng được cải thiện đáng kể. Các trung tâm vui chơi giải trí, các rạp chiếu phim, sân khấu ca nhạc hoạt động thường xuyên hơn để đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân. Nguồn thu ngân sách nhà nước từ hoạt động du lịch sẽ được chính quyền địa phương đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng nhằm tăng cường phúc lợi xã hội cho nhân dân tỉnh Bình Thuận. Đến cuối năm 2008, 75% các bệnh viện tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Bình Thuận đều được đầu tư nâng cấp thiết bị y tế nhằm nâng cao chất lượng khám chữa bệnh; 85% số xã có nước sạch; 100% các thị trấn có sóng điện thoại …
Mặt khác, sự hưởng thụ các hàng hóa và dịch vụ du lịch giúp du khách có điều kiện nghỉ dưỡng, chữa bệnh giúp phục hồi sức khỏe, thu thập nhiều thông tin, nâng cao tri thức trong nhiều lĩnh vực thông qua hoạt động du lịch.
Như vậy, hoạt động du lịch đã góp phần làm tăng thu nhập, tăng tuổi thọ và trình độ văn hóa của nhân dân Bình Thuận, cải thiện cuộc sống vật chất lẫn tinh thần cho nhân dân, tạo tiền đề thúc đẩy sự tiến bộ xã hội tại Bình Thuận.
2.3.2.2. Góp phần gìn giữ và tôn vinh các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc
Sự phát triển của hoạt động du lịch tạo động lực khôi phục, tôn tạo và khai thác nhũng tài nguyên văn hóa, xã hội của Bình Thuận. Các khu di tích lịch sử trước đây như khu di tích Dinh Vạn Thủy Tú, di tích kiến trúc nghệ thuật Tháp Pôshanư, di
tích Hoàng tộc Chăm-pa, di tích nghệ thuật Dinh Thầy Thím… gần như bị bỏ hoang, thì đến nay đã trở thành những điểm tham quan của du khách trong và ngoài nước. Khi được đưa vào khai thác phục vụ du khách, các di tích lịch sử được gìn giữ, bảo vệ và tôn vinh. Không chỉ vậy, hoạt động du lịch còn “tạo linh hồn” cho các di tích lịch sử ấy, làm cho nó có sức sống và tạo nên đặc trưng riêng của Bình Thuận.
Các lễ hội truyền thống ở Bình Thuận như lễ hội Nghinh Ông, lễ hội Đua thuyền, lễ hội Trung Thu, lễ hội Cầu Ngư, lễ hội văn hóa Dinh Thầy Thím trước đây chỉ là những sinh hoạt gắn liền với đời sống tinh thần của nhân dân Bình Thuận thì nay đã được nâng lên thành những nét văn hóa truyền thống, trở thành “món ăn tinh thần” của du khách mỗi khi đặc chân đến Bình Thuận. Ngoài ra, những hoạt động văn hóa thể thao tại Bình Thuận cũng được phát triển ở quy mô lớn và để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng du khách như ngày hội văn hóa du lịch Bình Thuận được duy trì vào ngày 24 tháng 10 hàng năm, các giải đấu thể thao gắn liền với du lịch biển, hội rước đèn Trung thu, hội Đua thuyền, hội thi Ảnh nghệ thuật … Vậy, du lịch đã góp phần nâng cao giá trị cho các tài nguyên văn hóa, xã hội của Bình Thuận.
2.3.2.3. Góp phần ổn định chính trị, xã hội
Hoạt động du lịch ở Bình Thuận giai đoạn 2001 – 2008 góp phần tạo nên sự ổn định về chính trị, xã hội cho địa phương này. Hoạt động du lịch tăng thêm tình đoàn kết hữu nghị của nhân dân Bình Thuận với du khách trong và ngoài nước.
Mặt khác, hoạt động du lịch giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân Bình Thuận, tạo cơ sở để củng cố niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước. Sự kết hợp hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhân dân địa phương và du khách tạo nên không khí hòa bình, thân thiện. Sự ổn định về chính trị, xã hội, đến lượt nó, lại tạo môi trường thuận lợi thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh mà trước hết là thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.