Yêu Cầu Về Nội Dung Và Hình Thức Trong Xây Dựng Pháp Luật Về Giáo Dục

3.3. Yêu cầu về nội dung và hình thức trong xây dựng pháp luật về giáo dục

Xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục là một nhu cầu khách quan nhằm tạo ra một nền tảng pháp lý vững chắc, đầy đủ và có hiệu lực đối với các hoạt động giáo dục của các tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục cần đáp ứng một số yêu cầu về nội dung và về hình thức.

Thứ nhất là yêu cầu về nội dung: đảm bảo xây dựng và hoàn thiện một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục đầy đủ, toàn diện để các văn bản pháp luật phản ánh đầy đủ các hoạt động về giáo dục phù hợp với điều kiện cụ thể trong từng thời kỳ, kịp thời điều chỉnh một cách có hiệu quả các quan hệ giáo dục trong thực tiễn. Nội dung các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục phải đảm bảo được các tiêu chuẩn: tính toàn diện, tính đồng bộ và tính phù hợp của văn bản trong hệ thống pháp luật về giáo dục.

Tính toàn diện là tiêu chuẩn đầu tiên thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Tính toàn diện của pháp luật về giáo dục thể hiện ở hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục điều chỉnh một cách đầy đủ, thống nhất các hoạt động giáo dục. Hệ thống pháp luật về giáo dục phải có đủ các quy phạm pháp luật cần thiết để điều chỉnh các quan hệ cơ bản về giáo dục, như:

- Các quy định về hoạch định chiến lược phát triển giáo dục, quy hoạch mạng lưới trường lớp, quy hoạch hệ thống giáo dục quốc dân, quy định phổ cập và xã hội hóa giáo dục.

- Các quy định về tổ chức và hoạt động của nhà trường và cơ sở giáo dục khác.

- Các quy định về nội dung, chương trình, sách giáo khoa, thiết bị dạy học.

- Các quy định về tuyển sinh, thi, kiểm tra và công nhận tốt nghiệp của các cấp, bậc học.

- Các quy định về quản lý, sử dụng tài chính

- Các quy định về tổ chức nghiên cứu khoa học

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.

- Các quy định về hợp tác quốc tế

- Các quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, nhà giáo

Lịch sử pháp luật về giáo dục ở Việt Nam từ 1945 đến nay - 15

- Các quy định về thẩm quyền và phân cấp quản lý nhà nước về giáo dục.

- Các quy định về thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo.

Tính đồng bộ của hệ thống pháp luật về giáo dục thể hiện sự thống nhất của nó. Đảm bảo các quy phạm pháp luật về giáo dục được ban hành không trùng lắp, mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tính đồng bộ ở đây còn thể hiện sự thống nhất, không mâu thuẫn, không trùng lắp, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, mỗi chế định pháp luật và giữa các quy phạm pháp luật với nhau. Các văn bản được ban hành đảm bảo thứ bậc, hiệu lực pháp lý, các quy định về nội dung, quy định về thủ tục. Đây là yêu cầu về sự tuân thủ thứ bậc cao thấp về giá trị pháp lý của văn bản. Các văn bản được ban hành đúng thẩm quyền. Tính thống nhất của hệ thống pháp luật cần đạt được cả về hình thức lẫn nội dung quy định pháp luật, không thể có tình trạng các quy phạm pháp luật trong cùng một hệ thống mâu thuẫn, chồng chéo và vô hiệu hóa lẫn nhau. Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, văn bản ở cấp độ thấp hơn phải căn cứ vào văn bản ở cấp độ cao hơn, phải nhằm cụ thể hóa để thực hiện văn bản ở cấp độ cao hơn. Nếu không đáp ứng yêu cầu như vậy, thì văn bản ở cấp độ thấp hơn sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành. Pháp luật về giáo dục được ban hành phải đảm bảo thúc đẩy sự phát triển giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hôi. Hệ thống các văn bản pháp luật về giáo dục về nội dung phải đảm bảo trên dưới, thứ bậc, đồng bộ, thống nhất và minh

bạch, tuân thủ đúng hình thức văn bản theo thẩm quyền. Ngôn ngữ văn bản phải thống nhất, dễ hiểu, dễ thực hiện.

Tính phù hợp của hệ thống pháp luật thể hiện sự tương quan giữa trình độ của pháp luật về giáo dục với trình độ phát triển của kinh tế xã hội. Pháp luật về giáo dục phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế xã hội, nó không thể ao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Cụ thể, pháp luật về giáo dục phải phản ánh và thể chế hóa được đường lối, chính sách của đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục. Các quy định pháp luật đó phải phù hợp với các văn bản pháp luật khác và phù hợp với thực té các hoạt động giáo dục.

Thứ hai là yêu cầu về hình thức. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện phải được xây dựng ở trình độ pháp lý cao, đúng hình thức quy định. Các nội dung trên phải được thể hiện dưới các hình thức văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước, tức là các quy định pháp luật về giáo dục. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hình thức hoạt động cơ bản nhất của nhà nước mang tính sáng tạo cao nhằm tạo ra công cụ quản lý: các văn bản quy phạm pháp luật. Với tư cách là công cụ của Nhà nước, do Nhà nước đặt ra và bảo đảm thực hiện, văn bản quy phạm pháp luật nói riêng và pháp luật nói chung là sản phẩm chủ quan của quá trình nhận thức các quy luật khách quan, quá trình phân tích sâu sắc thực trạng kinh tế - xã hội và nhu cầu quản lý Nhà nước đồng thời ghi nhận các nhu cầu về lợi ích của toàn xã hội, làm cơ sở cho việc xác định thái độ, biện pháp tác động cụ thể của Nhà nước đối với các quan hệ xã hội. Việc tạo ra các quy định pháp luật có nội dung phù hợp nhu cầu phát triển khách quan của xã hội, nhu cầu quản lý Nhà nước nhằm bảo đảm trật tự, ổn định và phát triển của xã hội là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng và hiệu quả quản lý Nhà nước. Ở một góc độ khác, pháp luật về giáo dục là một bộ phận cấu thành hữu cơ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của

Nhà nước. Do đó, khi ban hành chúng, đòi hỏi phải bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất, đồng bộ của văn bản trong hệ thống pháp luật. Yêu cầu này buộc nhà làm luật xác định rõ thẩm quyền hình thức, thẩm quyền nội dung của văn bản, phân định rõ ranh giới cũng như mối quan hệ hữu cơ các quy định của văn bản được soạn thảo với các quy định hiện hành của hệ thống pháp luật. Hơn nữa, trong điều kiện mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế với các nước trong khu vực và trên thế giới thì việc nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật các quan hệ xã hội tương ứng của các nước trong khu vực và của các nước khác trên thế giới là cần thiết nhằm làm cho pháp luật Việt Nam phù hợp với trình độ và thông lệ Quốc tế.

Các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành bằng những hình thức văn bản khác nhau về tên gọi và giá trị pháp lý. Các cơ quan quyền lực và quản lý nhà nước được tổ chức theo thứ tự quan hệ về thẩm quyền: trên và dưới, trung ương và địa phương. Vì vậy, văn bản do mỗi cơ quan nhà nước ban hành phải thể hiện đúng thẩm quyền của từng cơ quan đó, như vậy mới đảm bảo sự tương xứng với mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước với nhau. Mỗi cơ quan nhà nước được pháp luật quy định thẩm quyền về mặt hình thức và về mặt nội dung trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, một cơ quan Nhà nước, khi có nhu cầu ban hành văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc thẩm quyền thì nhất thiết phải dùng hình thức văn bản được pháp luật quy định.

Như vậy có thể thấy rằng, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giáo dục phải dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn như quan điểm của Đảng về pháp luật về giáo dục, thực tiễn giáo dục, chiến lược phát triển giáo dục, thực trạng pháp luật hiện hành và kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật về giáo dục ở một số nước, phải đảm bảo các yêu cầu về nội dung và hình thức pháp luật.

3.4. Phương hướng, giải pháp xây dựng pháp luật từ nay đến năm 2020 và một số giải pháp xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020‌

3.4.1. Phương hướng xây dựng pháp luật về giáo dục từ nay đến năm 2020

Phương hướng xây dựng pháp luật về giáo dục là các xu hướng phát triển cơ bản phải được thể hiện trong hoạt động soạn thảo, ban hành pháp luật, thi hành pháp luật về giáo dục nhằm thúc đẩy sự phát triển các quan hệ xã hội trong lĩnh vực giáo dục phục vụ cho việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.

Trên cơ sở đánh giá quá trình phát triển của pháp luật về giáo dục từ 1945 đến nay, thực trạng công tác soạn thảo, ban hành, thi hành pháp luật về giáo dục, tình hình kinh tế - xã hội hiện nay và Chiến lược phát triển đất nước, phát triển giáo dục từ nay đến 2020 trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế tại Việt Nam hiện nay, có thể xác định những phương hướng phát triển cơ bản của phát luật về giáo dục hiện nay như sau:

- Pháp luật về giáo dục là pháp luật của nhà nước pháp quyền, thể hiện quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực giáo dục: điều đó đòi hỏi pháp luật về giáo dục phải mang tính pháp lý cao, khách quan, công bằng. Người học được xác định trung tâm của công tác xây dựng pháp luật về giáo dục; quyền tự chủ là bản chất vốn có, là giá trị tự thân của cơ sở giáo dục cần được ghi nhận trong pháp luật về giáo dục.

- Pháp luật về giáo dục gia đoạn 2020 phải thể chế hóa quan điểm của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Nghị quyết Đại hội XI về giáo dục và đào tạo, đó là “ Thể chế hoá

quan điểm coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá giáo dục”, xây dựng xã hội học tập, nâng cao chất lượng giáo dục. Xác định rõ sự thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục, đồng thời tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của nhà trường, của cơ sở giáo dục; tạo sự bình đẳng, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình đào tạo công lập và ngoài công lập” và là cơ sở pháp lý để đổi mới căn bản toàn diện giáo dục Việt Nam, để thực hiện các mục tiêu tổng quát và cụ thể của Chiến lược phát triển giáo dục đến năm 2020.

- Pháp luật về giáo dục phải đảm bảo yêu cầu về nội dung và hình thức xây dựng pháp luật; khắc phục được những nội dung không phù hợp, chồng chéo, mâu thuẫn đang tồn tại trong hệ thống pháp luật về giáo dục.

- Sự phát triển của pháp luật về giáo dục gắn liền với xu hướng pháp điển hóa pháp luật về giáo dục: một trong những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc của nhà nước pháp quyền là bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật. Trong thời kỳ đổi mới, nhà nước ta đã xây dựng được một số đạo luật cơ bản về giáo dục như Luật giáo dục năm 2012, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật giáo dục năm 2009 và Luật giáo dục đại học năm 2012, tuy nhiên so với yêu cầu quản lý giáo dục trong giai đoạn mới, hệ thống pháp luật về giáo dục còn thiếu văn bản luật, số lượng văn bản dưới luật còn quá nhiều. Đẩy mạnh công tác pháp điển hóa là nhiệm vụ cấp bách nhằm xây dựng các văn bản luật mang tính ổn định cao, tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho hoạt động giáo dục, hạn chế những mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật về giáo dục. Từ nay đến năm 2020, cần tiếp tục soạn thảo, ban hành một số đạo luật điều chỉnh những vấn đề cơ bản của giáo dục như: luật về nhà giáo, luật giáo dục phổ thông, luật giáo dục nghề nghiệp, luật giáo dục mầm non.

- Phù hợp xu hướng luật pháp quốc tế: từ năm 2005, Việt Nam đã là

thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và đã ký cam kết về Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) trong giáo dục. Nhiều vấn đề mới được đặt ra trong giáo dục như cơ chế cạnh tranh, đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, trách nhiệm giải trình, tính minh bạch, quy định về tương đương văn bằng, bảo vệ người học,… cần được quy định trong hệ thống pháp luật về giáo dục.

3.4.2. Giải pháp xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về giáo dục từ nay đến 2020

3.4.2.1. Giải pháp về công tác soạn thảo, ban hành pháp luật

Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động đòi hỏi phải bảo đảm các yêu cầu về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất, đồng bộ, tính khả thi, đảm bảo thực hiện đúng tiến độ, có chất lượng cũng như các yêu cầu về kỹ thuật soạn thảo, ngôn ngữ pháp lý của văn bản. Để nâng cao chất lượng công tác soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật cần thực hiện một số giải pháp sau đây:

- Nghiên cứu xây dựng chương trình dài hạn, chiến lược về soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục. Cơ quan lập pháp, cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục phải coi việc lập dự kiến chương trình, kế hoạch xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và chủ yếu trong công tác xây dựng pháp luật và công tác quản lý nhà nước về giáo dục.

Công tác xây dựng chương trình dài hạn, chiến lược về soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục cần dựa trên yêu cầu về nội dung và hình thức xây dựng pháp luật về giáo dục; phù hợp với phương hướng xây dựng pháp luật của từng thời kỳ.

- Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức về tầm quan trọng của công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đảm bảo điều hành hoạt

động quản lý nhà nước trong đó có công tác xây dựng pháp luật theo pháp luật, thực hiện đúng các quy định của Luật Giáo dục 2005, Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ.

Hình thành đội ngũ chuyên viên thạo việc, mỗi công chức phải là những người giỏi chuyên môn và kỹ năng soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật, coi soạn thảo văn bản là 01 nghề mang tính chuyên môn cao, mỗi cán bộ công chức nhà nước đều phải thạo việc soạn thảo văn bản. Song song với các đòi hỏi đối với người làm công tác xây dựng chính sách pháp luật phải có cơ chế, chính sách đảm bảo quyền lợi chính đáng của các chủ thể này.

- Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền như các Ủy ban của Quốc hội, các cơ quan của Chính phủ ngay từ đầu trong xây dựng những dự án luật, pháp lệnh và các văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Đảm bảo thực hiện đúng quy trình soạn thảo, góp ý, thẩm định, ban hành văn bản quy phạm pháp luật

Đối với các văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục của Chính phủ, Quốc hội cần đổi mới cơ chế phối hợp và xác định đúng vai trò và trách nhiệm của cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm định và đặc biệt là cơ quan thẩm tra dự thảo văn bản là Văn phòng Chính phủ để khắc phục sự chậm trễ ở khâu thẩm tra dự thảo văn bản trước khi trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; hạn chế các thủ tục hành chính trong các khâu của công tác này. Đây là vấn đề cấp bách bởi số lượng văn bản trình cấp trên còn nợ đọng từ nhiều năm hiện nay là rất lớn.

Xây dựng cơ chế phản biện khoa học, phản biện xã hội trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt khi đối với văn bản có nội dung liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của các văn bản. Triển khai xây dựng cơ chế đặt hàng trong soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật nhằm thu hút trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia giỏi trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 31/08/2022