đề tài sáng tác có khi còn phụ thuộc vào đặc điểm lịch sử xã hội của từng giai đoạn nhất định.
Văn học luôn luôn song hành cùng bước đi của lịch sử. ứng với mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc đều có những đề tài trung tâm. Chẳng hạn đề tài hiện thực xã hội đau khổ, đen tối, bất công trước cách mạng tháng Tám; đề tài chiến tranh cách mạng trong giai đoạn chiến tranh… Những đề tài đó xuất hiện do có sự đổi mới trong những quan hệ xã hội, nhất là trong những quan hệ giai cấp. Mặt khác, do yêu cầu văn học phải nhận thức và phản ánh kịp thời những chuyển biến lớn lao của đời sống nên có thể hiểu đề tài trung tâm là mảng hiện thực tập hợp những sự kiện những hiện tượng, những diễn biến quan trọng nhất của đời sống xã hội[20/117]. Đề tài trung tâm thể hiện những nét bản chất nhất của thời kỳ lịch sử đó. Nó bao quát hơn những đề tài cụ thể của từng tác phẩm trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Trong văn học nước ta từ sau 1954 đến nay, Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là đề tài cao đẹp nhất trong văn học nghệ thuật nước ta. Điều này được Đảng ta nhấn mạnh trong nhiều kỳ đại hội văn nghệ. Trước 1975, khi đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh thì đề tài về cuộc chiến đấu anh dũng của dân tộc, đề tài người lính được coi là những đề tài quan trọng nhất. Văn học không đứng ngoài hiện thực chiến tranh mà còn tham gia cổ vũ, động viên, truyền lửa cho cuộc kháng chiến của dân tộc ta để đi tới thắng lợi. Cho nên dễ hiểu là để tập trung cho mục tiêu chiến thắng văn học đã phải gạt đi nhiều đề tài khác không kém phần quan trọng để theo sát hoàn cảnh chiến tranh.
Sau 1975, khi hoà bình lập lại, khi quy luật của chiến tranh không còn tác động một cách sâu sắc tới việc lựa chọn phạm vi hiện thực của nhà văn thì hệ thống đề tài trong văn học đã được mở rộng. Trong khoảng 10 năm (1975 - 1985), khi đất nước còn tiếp tục cuộc đấu tranh ở biên giới phía Bắc và biên giới Tây nam thì đề tài chiến tranh vẫn có một vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam. Hơn nữa, nhiều cây bút trưởng thành trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ cũng không phải ngay lập tức có thể từ bỏ vùng hiện thực quen thuộc của mình. Nhưng khi viết về mảng đề tài này đã xuất hiện những dấu hiệu mới, hiện thực chiến tranh được soi chiếu một cách toàn diện hơn, thấu đáo hơn cả phía ta và phía địch với cái nhìn khách quan, ngay cả những vùng cấm địa trong chiến tranh cũng được khai mở. Bên cạnh đề tài chiến tranh thì đề tài về cuộc sống bình thường sau chiến tranh ngày càng trở thành đề tài trọng tâm của văn học trong một giai đoạn mới. Mảng đề tài thế sự, đời tư này thực sự lên ngôi khi đất nước trở lại hoà bình, khi con người trở về đối diện với những lo âu của cuộc sống thường nhật cũng là điều dễ hiểu.
Như vậy, trong giai đoạn chuyển tiếp của nền văn học Việt Nam hiện đại 1975- 1985 có hai mảng đề tài xuyên suốt là đề tài chiến tranh và đề tài thế sự, đời tư. Tiếp nối mảng đề tài chiến tranh của giai đoạn trước, ở giai đoạn này đã có những hướng tiếp cận mới. Còn đề tài thế sự, đời tư ngày càng chiếm một vị trí quan trọng với truyện ngắn nói riêng và văn xuôi nói chung.
1.1. Sự tiếp tục đề tài chiến tranh
Trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, mảng văn học về đề tài chiến tranh chiếm một vị trí quan trọng cả về số lượng và chất lượng. Những tác phẩm viết về đề tài này đã góp phần tạo nên những đường nét chủ yếu cho diện mạo của nền văn học sau chiến tranh.
Có thể bạn quan tâm!
- Quan Niệm Nghệ Thuật Về Con Người
- Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 - 5
- Sự Tiếp Nối Của Những Thế Hệ Nhà Văn Tài Năng
- Sự Xuất Hiện Và Chiếm Lĩnh Của Đề Tài Thế Sự, Đời Tư
- Sự Chuyển Đổi Cảm Hứng Nghệ Thuật Trong Truyện Ngắn 1975 - 1985
- Cảm Hứng Đạo Đức Thế Sự Giữ Vị Trí Quan Trọng
Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.
Trong chiến tranh, người cầm bút cũng đồng thời là người chiến sĩ, người trong cuộc, họ tự nguyện coi mình là người cổ vũ, truyền nhiệt cho cuộc chiến đấu. Bằng những tác phẩm của mình nhà văn muốn tham gia vào những sự kiện to lớn của dân tộc. Những tác phẩm ra đời trong chiến tranh vì thế giàu tính tự sự như muốn chạy đua với cuộc sống để kịp thời phản ánh và nêu ra những vấn đề cấp bách của đời sống chiến trận. Tuy nhiên nhiều khi nhà cổ động, nhà tuyên truyền đã lấn át cả con người nghệ sĩ.
Từ sau 1975, đặc biệt từ giữa những năm 1980 trở đi, khi tầm hiểu biết được mở mang, khi nền văn học được dân chủ hoá thì văn học viết về đề tài chiến tranh đã xuất hiện những dấu hiệu mới. Giờ đây, khi chiến tranh đã lùi xa, từ vai trò của người cổ vũ cho cuộc chiến đấu vì lý tưởng cao cả, khi thắng lợi đã thuộc về dân tộc ta, nhà văn trở thành người đào sâu trực tiếp vào thực tế của cuộc chiến đấu để trình bày, phát hiện mọi mặt của nó. Văn học viết về chiến tranh đi vào chiều sâu phức tạp và những điều chưa kịp khám phá trong hoàn cảnh chiến tranh. Mặt khác, từ nhiệm vụ chủ yếu là ca ngợi và khẳng định cuộc chiến đấu vĩ đại của dân tộc, giờ đây nhà văn lại đặt mình trong vai trò người phân tích và đánh giá những vấn đề gay gắt nảy sinh trong hiện thực chiến tranh liên quan trực tiếp đến số phận từng cá nhân và toàn xã hội. Vì thế, các nhà văn đã đi theo hướng mổ xẻ thực tế chiến tranh, tìm đến các mặt khác của sự thật chiến tranh. ở đó có cả anh hùng - hèn nhát, niềm vui - nỗi buồn, cao cả - thấp hèn, chiến thắng - thất bại…
Các truyện ngắn Trại bảy chú lùn, Tiếng vọng (Bảo Ninh), Năm tháng qua đi (Nguyễn Thị Như Trang)… đã phần nào đề cập đến những mặt khác nhau của chiến tranh. Bên cạnh hướng khai thác chính là hiện thực dữ dội trên những mặt trận âm vang tiếng súng còn có một hiện thực khác của bảy chiến sĩ ở vùng ven sông Sa Thầy trong một mặt trận không có tiếng súng (Trại bảy chú lùn). Trong số họ, có người đã ngã xuống, có người sống tới tận 40 tuổi mà vẫn không hề có tuổi trẻ. Đôi khi họ cảm thấy mình bị bỏ quên trong khi sức lực ngày càng cạn kiệt. Gánh nặng nương rẫy bẻ quặt sống lưng từng người. thân thể bị xô lệch, bị bóp méo, bóp móp. Mặt mày dệch dạc, nhăn nheo, già rụm đi[47/14].
Trong cái nhìn của tác giả, chiến tranh không phải chỉ toàn những mặt phi thường, thắng lợi. Con người cũng không phải lúc nào cũng tỏa sáng những phẩm chất anh hùng cao cả. Người chiến sĩ khi lạc khỏi đồng đội, một mình đối diện với bom đạn, chết chóc, đói khát… cũng có lúc bộc lộ cái bản
năng rất người: Nghẹn lời tôi không sao nói được và đột nhiên, bất ngờ với cả chính mình, tôi ngồi thụp xuống, hai tay bưng lấy mặt, bật lên tiếng khóc. Nào mưa gió, nào chết chóc, nào đói, nào khổ, nào con đường vô vọng phía trước mà lòng tôi âm thầm, dồn nén mãi, đến bây giờ tự nhiên òa ra, tan vỡ trong một niềm thương thân cay đắng, tủi hờn[47/95]. Dù khai thác những mặt khuất lấp của con người trong chiến tranh bằng cảm hứng sự thực thì cái đích đến cuối cùng của tác giả vẫn là khẳng định những phẩm chất cao đẹp của người lính. Bởi đó chỉ là những phút yếu lòng, những dao động trong sự nghiệt ngã của hoàn cảnh. Nó là lẽ tự nhiên trong cảm xúc của con người mà một thời văn học chiến tranh còn né tránh. Viết về chiến tranh ở những khía cạnh này, truyện ngắn sau chiến tranh đã phần nào xóa đi được lớp men trữ tình (Nguyễn Minh Châu) đã phủ lên các trang viết về chiến tranh trong giai đoạn kháng chiến.
Nhiều truyện ngắn khác lại đề cập đến những cái giá phải trả cho chiến thắng. Những cái giá ấy không chỉ trả ngay trong chiến tranh mà phải tiếp tục trả nhiều năm dài sau cuộc chiến. Đó là những vết hằn, những nỗi đau, những âm vang của quá khứ chiến tranh trong hiện tại đối với mỗi người đã từng đi qua chiến tranh và những người thân của họ. Những truyện ngắn khai thác đề tài chiến tranh theo hướng này đã để lại niềm xúc động sâu xa trong lòng độc giả. Mai (Thanh Quế) là một truyện ngắn như thế. Một cán bộ đi tập kết nay được nghỉ hưu trở về thì vợ đã mất, cô con gái độc nhất cũng hy sinh. Còn lại một mình trên cõi đời ông lặn lội đi tìm hài cốt của con, mong đó sẽ là nguồn an ủi cho một người cha đã xa con từ lúc nhỏ. Kỉ vật duy nhất của cô con gái để lại cho người cha chỉ là một lá thư mà ông nhận được từ hồi ông còn ở miền Bắc. Lần theo lá thư ông về làng Thanh Quýt. ở đây, ông được nghe câu chuyện cảm động về sự hy sinh dũng cảm của Mai (tên con gái ông). Hỏi thăm mộ con, ông choáng váng khi biết rằng đã có người xin dời mộ đem về an táng. Mọi vật chung quanh ông bỗng trở lên nhập nhoà. Nhưng
đúng lúc ấy, một tia hy vọng lại le lói lên khi biết tin có một cô Mai, người Đà Nẵng hy sinh ở làng Cẩm Sa cách đó không xa. Mọi chuyện tưởng đã có hồi kết khi ông gặp người đồng đội cùng tổ giao liên với cô. Ông lại được nghe kể về sự hy sinh anh dũng của Mai. Nhưng sau khi bọn địch cột xác cô vào xe tăng để huỷ hoại thân thể, bà con đã đấu tranh mang về chôn. Năm sau, tụi nó cày ủi vùng này nên ngôi mộ cũng mất luôn[54/233]. Ngực ông như chạm phải một tảng đá to không có cách nào lật nổi. Ông lặng người đi trong nỗi cô đơn tột cùng. Suốt mấy tháng qua, ông đã đi hết cơ quan này đến cơ quan khác đọc những bản danh sách liệt sỹ dài dằng dặc mong tìm ra mộ con. Nhưng cứ mỗi lần hy vọng vừa loé lên thì ngay lập tức thực tế phũ phàng lại dập tắt nó. Nhiều đêm ông lặng lẽ ngồi cho đến sáng, đôi mắt thâm quầng và lúc nào cũng lẩm bẩm một câu Có thể.. không có thể.. có thể. Một buổi sáng, trong cơn mơ, ông thấy mình dắt tay con từ lúc 5 tuổi đi dạo mát. Đang đi, tự nhiên cô bé rụt khỏi tay ông biến mất. Cuộc đuổi bắt của hai cha con vòng quanh một rừng dương. Đúng lúc này, có người đến báo tin mộ con ông nằm ở nghĩa trang Rừng Dương. Ngay lập tức, ông tìm đến nghĩa trang dưới một rừng dương xanh ngát. Người gác nghĩa trang chỉ cho ông ngôi mộ nằm sát một gốc dương. Ông thấy tim mình như ngừng đập vì tưởng rằng đã đi đến điểm kết thúc của cuộc hành trình. Trớ trêu thay, cô gái có tên trong bia mộ lại nhỏ hơn con gái ông đến năm tuổi và không hề ghi quê quán. Một trạng thái dao động cùng cực biến thành nỗi tuyệt vọng đè nặng nên trái tim ông. Ông cảm thấy đôi chân mình đang ngập dần dần vào lòng cát, không thể nào cất người đứng dậy được nữa[54/238]. Trong cuộc tìm kiếm hài cốt con mình, ông gặp biết bao người con đã hy sinh anh dũng. Hóa ra, tên, họ của người đã hi sinh không phải là điều tác giả cần nói tới. Điều chủ yếu ở đây là tinh thần yêu nước, ý chí kiên cường, sự hi sinh dũng cảm của những cô gái miền Nam, trong đó Mai chỉ là một đại diện tượng trưng cho hàng ngàn cô gái
anh hùng đã ngã xuống cho đất nước này. Nỗi đau ấy sẽ mãi mãi không sao xoá được dù cho chiến tranh đã qua đi.
Chiến tranh không chỉ làm cho cha mất con, vợ mất chồng, anh mất em.. mà cả những người đã sống đến ngày toàn thắng lại hy sinh ngay trong hoà bình bởi những tàn tích do nó để lại. Đó là trường hợp của Cần (Chú Viễn- Triệu Huấn). Trong chiến tranh, Cần là một chiến sĩ đặc công. So với những người cùng đơn vị anh may mắn đã vượt qua nhiều cuộc chiến đấu cam go cho đến ngày thắng lợi. Nhưng dù chiến tranh đã ở lại phía sau thì nhiệm vụ của người lính công binh vẫn còn ở phía trước. Bao nhiêu bom đạn đã dội xuống trong chiến tranh bây giờ để lại mầm mống tai hoạ trong lòng đất. Cần nhận nhiệm vụ đi gỡ mìn để giải phóng đất đai. Đây là một công việc hết sức phức tạp và nguy hiểm. Nó đòi hỏi người chiến sỹ không được có một sai sót nào. Bởi vì chỉ một sai sót nhỏ, họ phải trả giá bằng chính mạng sống cuả mình. Cần đã đi qua sáu trăm mười bốn trường hợp, đã giành được bằng ấy khoảng không gian mà thần chết chiếm giữ để trả lại cho thanh bình[58/144]. Nhưng anh đã không qua được trường hợp thứ sáu trăm mười lăm.
Viết về đề tài chiến tranh theo hướng này, các nhà văn giúp người đọc nhận rõ sự khốc liệt của chiến tranh. Đằng sau những chiến công chói lọi là bao sự hy sinh thầm lặng, bao đau thương mất mát mà thời gian chỉ càng làm lộ rõ. Tuy nhiên vượt lên đau thương, con người Việt Nam vẫn luôn thể hiện tấm lòng nhân ái, bao dung của mình, nhất là đối với những kẻ đã từng đứng ở bên kia chiến tuyến. Nhiều truyện ngắn viết về chiến tranh đã đi vào khía cạnh này, để qua đó vừa tiếp tục khẳng định lòng nhân đạo cao cả của người chiến sỹ cách mạng, đồng thời bộc lộ niềm tin ở sự cảm hoá đối với những người đã một thời lầm lạc. Trong truyện Cơn Giông của Nguyễn Minh Châu, Quang là một kẻt phản bội Tổ quốc ngay trong lúc cuộc kháng chiến của ta đang ở trong bước khó khăn nhất. Vốn là một người tài hoa nên hắn nghĩ hắn
không thể sống thiếu thốn, không thể chịu những hoàn cảnh nghiệt ngã. Hắn có thể trở thành một người tốt, thậm chí là một nhà cách mạng kiên định nếu cách mạng thoả mãn những thèm khát của hắn, nếu cách mạng đang ở trong bước thuận lợi. Vì vậy khi cách mạng gặp khó khăn hắn đã không do dự đầu hàng kẻ thù. Hắn từng dốc sức giúp kẻ địch bắt tra tấn đồng đội mình một cách thâm độc. Hoà bình, hắn được đi học tập ở trại cải tạo sĩ quan. Bất ngờ hắn gặp lại Thăng, một thời là đồng chí nhưng cũng là người bên kia chiến tuyến với hắn. Chính hắn từng bắt Thăng và cũng là người mở đường để anh bò về căn cứ, trong lúc anh đang bị thương nặng với thâm ý để cho Thăng sẽ phải tự kiệt sức mà gục xuống mãi mãi. Nhưng hắn cũng thể ngờ rằng, Thăng đã kiên cường trở về được với hàng ngũ của mình. Hơn thế, bây giờ anh còn là một tiểu đoàn trưởng. Trong phút gặp gỡ bất ngờ, Thăng không hề muốn khơi lại chuyện cũ nhưng nói chuyện với nhau dù chỉ là những chuyện bình thường vẫn thấy khó. Tuy thế, anh vẫn không hề nói điều gì trong quá khứ vợ hắn và động viên chị giúp chồng cải tạo bởi lẽ mọi con người đều có thể thay đổi. Đó cũng chính là niềm tin vào con người mà Nguyễn Minh Châu đã gửi vào trong hầu như tất cả các tác phẩm của mình.
Còn đối với những kẻ lầm đường lạc lối nhưng đã từng giúp đỡ cách mạng thì công lao ấy vẫn được ghi nhận. Không vì những con người này từng cầm súng chống lại cách mạng mà xoá sổ mọi đóng góp của họ.Tinh thần nhân đạo ấy được Xuân Thiều phản ánh trong truyện ngắn Khoảng cách tình cảm. Hồi còn là học sinh trường Quốc học, Hải thầm yêu Vân, cô bạn gái cùng xã. Hải và Vân từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên Huế đấu tranh chống Mỹ- Thiệu. Khi phong trào bị đàn áp, trong lúc Vân bỏ về quê để tham gia du kích thì Hải bị động viên vào lính ngụy đóng ở đồn Mang Cá. Sau này, chính Vân là người móc nối để xây dựng Hải thành cơ sở nội tuyến. Hải đã cung cấp một số tin tức quan trọng và bản sơ đồ bố phòng của địch ở khu Mang Cá cho cách mạng. Việc làm của Hải chỉ có Vân và Thái Văn - tổ
trưởng tổ trinh sát biết. Nhưng Vân đã hy sinh ngay trong cuộc tổng công kích đó. Chỉ còn Thái Văn là người duy nhất biết được sự đóng góp của Hải với cuộc cách mạng của dân tộc. Sau giải phóng, Hải đã nhiều lần đi tìm Thái Văn nhưng trong lòng luôn mang theo nỗi nghi hoặc không biết anh ta có chứng nhận phần công lao của mình. Bất ngờ, Hải tìm được Thái Văn chính ở nơi xưa kia anh ta từng đóng quân. Hải đề nghị Thái Văn chứng nhận vào bản lý lịch của mình và cũng không quên kể cho Thái Văn tình cảm của Hải với Vân. Nhưng Hải đã không hề biết rằng Thái Văn chính là người yêu của Vân. Anh đã chứng nhận những gì thuộc về phần công lao mà Hải đã đóng góp cho cách mạng. Còn những gì thuộc về tình cảm giữa Hải và Vân anh giữ thái độ im lặng. Sẽ trở lên nhẫn tâm nếu nói toạc ra sự thật về mối liện hệ phức tạp ấy. Để cho Hải được sống với ảo giác của mình, được sung sướng mỗi lần nhớ lại kỉ niệm về mối tình đơn phương mà Hải không hề biết. Bởi kỷ niệm đẹp đẽ nào cũng góp sức mạnh cho mình trong cuộc sống hiện đang sống. Hẳn là chút kỷ niệm kia sẽ giúp ích cho Hải, nếu anh thực sự muốn rút ngắn dần quãng cách tình cảm giữa anh và cách mạng[67/167].
Viết về chiến tranh sau chiến tranh, các tác giả có thời gian, có điều kiện hơn để suy ngẫm và đào sâu thêm vào các tình huống chiến tranh, các tính cách nhân vật. Diện mạo chiến tranh được khai thác đầy đủ hơn cả phía ta và phía địch. Đổi mới trong số những truyện ngắn này là ở chỗ: sự nhận diện kẻ thù kĩ càng hơn, việc chỉ mặt đặt tên những kẻ phản bội đầu hàng cũng thẳng tay hơn. Nhất là khi kẻ thù lúc này lúc này nhiều khi ẩn nấp trong cái vỏ bề ngoài tưởng như bình lặng. Chân dung một người hàng xóm của Dương Thu Hương ra mắt bạn đọc đúng vào lúc nước ta đang chống lại quân xâm lược Trung Quốc.Truyện ngắn đã đạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 1978- 1979 không chỉ bởi tính tự sự nóng hổi của sự kiện mà chính bởi nó đã khắc hoạ được sinh động chân dung một con người với cả một quá trình biến đổi vừa âm u khủng khiếp ở nó: từ một con người hiền lành chất