Không Gian Sử Thi. Không Gian Ký Ức Chiến Tranh


chiếm được/ Chỉ một gốc sim thôi, dù chỉ gốc sim cằn/ Tổ quốc sẽ ra sao? Tổ quốc ” (Đường tới thành phố).

Có khi không gian sử thi cánh đồng của mẹ được khắc sâu thành hình tượng nghệ thuật độc đáo: “Những cánh đồng in dấu chân của mẹ/ Cứ ngày ngày ra khẩu lệnh cho tôi”. Có khi là căn hầm nuôi dấu chồng suốt hai mươi năm nhưng người vợ lại góa bụa trong hồ sơ của địch, đó cũng là chiến trường ác liệt mà lòng người phải chiến đấu. Một khu vườn nhỏ, có cây ớt nhỏ che miệng hầm trú ẩn cũng đã trở thành hình tượng nghệ thuật chiến đấu được che chắn: “Quạt khép mở trên tay của mẹ/ Thành tín hiệu qua đường/ Cây ớt che miệng hầm/ Chiếc dây phơi kéo cờ khởi nghĩa” (Đường tới thành phố).

Mặt trời trong lòng đất, không gian nghệ thuật thường là cảnh chiến đấu trên hầm địa đạo. Cuộc kháng chiến trường kỳ, từ đời cha ông đã sinh ra những hầm bí mật, nay đến đời cháu con có cả một địa đạo rộng lớn. Đêm địa đạo, đúng như mô tả, không có bắt đầu và kết thúc. Cảnh vật đêm ngày hoà lẫn trong nhau, và có những con người bình thường đang làm nên lịch sử.

Hình ảnh căn hầm cũng là một không gian sử thi đặc biệt không thể thiếu được trong cuộc chiến tranh chống Mỹ. Những căn hầm ấy cũng là nơi che dấu du kích khi bị bố ráp vây lùng và cũng là không gian nghệ thuật: “Một cô gái biến vào ngõ nhỏ/ Một người mẹ đậy nắp căn hầm/ Bỗng hát ru trong chiều lảng bảng” (Ở làng Phước Hậu). Ngày chiến thắng, căn hầm cũng chung hưởng niềm vui. Không còn cảnh trú ẩn trong hầm giữa hai bờ sinh tử.

Không gian nghệ thuật mặt đường là nơi hội tụ của mọi tầng lớp nhân dân, không gian ngày hội của cách mạng trong Những người đi tới biển, Đường tới thành phố… Với Thanh Thảo cũng vậy; không gian nghệ thuật là con đường đi tới biển dằng dặc suốt chiều dài đất nước đầy chông gai, là dòng sông không yên nghỉ, là nơi chiến đấu để tìm đến chân, thiện, mỹ: “Những dòng sông băng qua những vết thương/ Về với biển đâu phải tìm yên nghỉ” (Những người đi tới biển).


Không gian sử thi còn là cảnh chiến thắng với đoàn đoàn người hớn hở, vui mừng bằng những câu thơ khá da diết: “Ngày 30 tháng 4 thành tên gọi con đường/ Con cháu lại đi hồi hộp bên nhau/ Cùng với chúng ngày hôm nay trẻ mãi” (Đường tới thành phố). Tuy nhiên, cũng không loại trừ nhiều ngoại cảnh vẫn còn thô ráp như đoạn thơ trong chương 5 nói nhiều về tương lai, ước vọng nhưng có ý hơi rời rạc, âm điệu có phần nặng nề, thiếu chất thơ trong: “Hình như chị xếp thùng chiều nào quanh vòi nước/ hình như anh lưng gò xuống máy khâu/ anh tìm họ nhưng anh không lên bục/ Cứ cảm thông chia sẻ giữa nền đường” (Đường tới thành phố).

Thời chống Mỹ, có thể nói rằng, Tổ quốc là không gian nghệ thuật rộng lớn. Xuất hiện trong trường ca là không gian địa lý mang nặng hơi thở chiến tranh. Có chết chóc, có máu đổ, thây rơi... nhưng cũng có những cảnh tượng bình yên. Đó chính là không gian nghệ thuật sử thi góp phần mô tả tính chất cực kỳ ác liệt của cuộc chiến thông qua những cảnh tượng hoành tráng, không khí hào hùng; những khung cảnh riêng tư lặng im, dồn nén... thực sự phục vụ cho việc chuyển tải nội dung tư tưởng của những bản trường ca sử thi hiện đại thời chống Mỹ.

3.3.3. Không gian sử thi. Không gian ký ức chiến tranh

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.

Những trường ca viết về thời chống Mỹ từ sau 1980 thiên về sự hồi tưởng. Vì thế, không gian nghệ thuật thường là những cảnh chiến trường nhưng mang nặng ký ức chiến tranh. Và ngoại cảnh ấy dù được tận mắt chứng kiến nhưng đã trải qua lăng kính thời gian. Ở thời bình, người lính năm xưa may mắn sống sót sau chiến tranh đã hồi tưởng về cuộc chiến; về bạn bè, đồng đội ai còn, ai mất... Hồi tưởng nhưng đều là cảnh thực. Nhiều trường ca cũng sử dụng không gian xã hội để thể hiện tâm trạng suy tư, trăn trở về thời cuộc hiện tại. Bích Thu, trong bài viết “Chiến tranh trong thơ hiện nay” đã nhận định: “sáng tác về chiến tranh hôm nay không có không khí ào ạt, dữ dội của những


Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam - Nguyễn Thị Liên Tâm - 22

người trong trận như một số trường ca viết về chiến tranh trước đây mà là những hồi ức, chiêm nghiệm về một hiện thực đã qua(TCVH 12/1994).

Không gian nghệ thuật có thể là cảnh hiện tại đan xen với cảnh đã từng có trong quá khứ. Ở chương đầu trường ca Sông Dinh mùa trăng khuyết, Giang Nam đã bày tỏ cảm xúc truớc hiện thực tươi sáng đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trên quê hương sau chiến tranh: “Có thể nào tin/ Chiến tranh đã qua đây/ Làng lại xanh bờ tre, tiếng cu gù buổi sáng/ Vịt lội trong hố bom, sân trường xưa đầy nắng/ Đất hiền lành, chiếc nón lá cũng xinh”.

Từ Nguyên Tĩnh chọn không gian nghệ thuật là cây cầu Hàm Rồng, mảnh đất thiêng trong Trường ca Hàm Rồng; nơi thường xảy ra những trận giao tranh cực kỳ ác liệt để tăng hiệu quả ngợi ca, ngưỡng vọng.

Có khi, nhà thơ khắc họa không gian sử thi bằng cách tái hiện cảnh chiến trường khi im tiếng súng. Sự yên bình giúp những cô gái thanh niên xung phong trong Lửa mùa hong áo lại dịu dàng gội tóc cho nhau, cùng nhau chung đọc một bức thư nhà, cùng nhau ngồi may áo... tạo cho ta sự cảm phục, yêu thương những cô gái quên cả tuổi xuân; xa gia đình đi phục vụ kháng chiến.

Ngân Vịnh, trong tập trường ca Phía hoàng hôn yên tĩnh; đã kể về bà mẹ Điện Bàn có chín người con hy sinh, lặng lẽ đi tảo mộ vào chiều cuối năm. Không gian sử thi là chiều nghĩa trang với những nấm mồ lặng im, nén nhang cháy dở, màu mây trắng trời tạo hiệu ứng đồng cảm, xẻ chia cùng mẹ và tưởng nhớ về người đã khuất: “Mang theo hương hoa/ mẹ đến nghĩa trang/ Cuối năm ngày chạp mồ chạp mả/ nén nhang cháy chân trời mây trắng xóa/ những nấm mồ lặng im mà nước mắt mẹ nhòa”.

Lê Anh Quốc lại chọn cảnh một chiều gió thổi mù như khói để làm nền cho người thương binh xuất hiện với chiếc nạng gỗ đang gõ dọc trên đường: “Ngườì trở về/ trên mình đầy thương tích/ Chiếc nạng gỗ gõ dọc chiều cơn lốc/ Hiểu con đường đang chín giọt mồ hôi”. Cảnh ấy đã khiến người đọc phải xót xa. Không gian sử thi cũng có thể là chiến hào năm xưa khi người lính già tìm


về lại: “Ai còn sống như tôi, tóc điểm bạc trên đầu/ Một sớm mai lên thăm trận địa/ Trời ơi, chiến hào xưa đã ngập màu cỏ/ Khẩu pháo đã gỉ han, hố bom cũ đã san nền” (Khoảng trời người lính).

Như vậy, qua một số trường ca đã khảo sát, chúng ta thấy rằng không gian nghệ thuật được chọn để mô tả trong trường ca về thời chống Mỹ đa phần đều xuất phát từ ý đồ của người sáng tác trên nền hiện thực và có tác dụng to lớn, mạnh mẽ đến tâm hồn người viết, nhân vật trữ tình và độc giả. Mỗi một cảnh vật được lựa chọn phần lớn đều có giá trị phục vụ cho việc thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm, nhất là đối với thể loại trường ca hiện đại vốn chứa đựng trong chính nó là người thật, việc thật, cảnh thật... Không gian nghệ thuật trong hầu hết các trường ca về thời chống Mỹ là không gian sử thi với những chiến trường ác liệt, dù là sáng tác trong cuộc chiến hay sau khi đất nước đã thanh bình. Những cảnh tượng hào hùng như thế được mô tả gắn liền với không khí dữ dội, ác liệt của chiến trường, của những cuộc đấu tranh. Không gian sử thi trong trường ca viết ở những năm sau chiến tranh chủ yếu là không gian ký ức chiến tranh, không gian hồi tưởng về chiến tranh nhưng cũng là hình ảnh thật của không gian sử thi thời chống Mỹ. Tất nhiên, trong trường ca không thể thiếu vắng những cảnh đời thường với nhiều sắc thái cảm xúc do đời sống quá sức phong phú; và không gian nghệ thuật ấy cũng đã góp phần phản ánh sự khốc liệt của chiến tranh.

3.4 Sự liên tưởng

Cảm xúc có thể biểu hiện qua hành động, lời nói, cử chỉ… Cảm xúc còn biểu hiện mạnh mẽ qua sự tưởng tượng, liên tưởng. Làm nên sự thành công cho trường ca, không chỉ ở việc xây dựng hình tượng nhân vật, không thời gian nghệ thuật, tính sử thi, tính trữ tình, việc sử dụng chất liệu văn học dân gian... mà còn ở giá trị của phương thức liên tưởng. Những trường ca giàu tính triết lý chính luận và trữ tình càng nhiều thì việc sử dụng yếu tố liên tưởng càng cao, góp thêm những dòng nước mát vào suối nguồn trường ca sử thi hiện đại.


Lê Đình Kỵ đã từng nói “Liên tưởng là đem nhích gần lại, trộn lẫn vào nhau hai sự vật vốn xa lạ với nhau, càng xa càng gây được thích thú”[42, 235]. Trong Cơ sở Văn hoá Việt Nam, khi triết lý về cấu trúc thời gian của vũ trụ, Trần Ngọc Thêm đã cho rằng: “cho đến nay,... căn cứ vào thời điểm xuất hiện của trăng, hình dáng của trăng, dân gian đã tích lũy được kinh nghiệm xem trăng mà xác định chính xác từng ngày” [94, 73].

Sự liên tưởng về thời gian có khi nằm ở cách tính tháng tính ngày dân dã qua hình ảnh của vầng trăng tròn mọc định kì mỗi tháng. Nguyễn Đức Mậu đã có một cách liên tưởng thật kỳ lạ. Người mẹ dõi theo bước chân hành quân của con bằng cách bấm từng đốt ngón tay hao gầy để tính thời gian, đã tạo ấn tương độc đáo: “Ngón tay khô gầy/ Mẹ tính đốt thời gian/ Khi mười ngón tay mẹ đầy vầng trăng mọc/ Thì chúng con giải phóng Sài Gòn” (Trường ca Sư đoàn).

Trong Quê hương mặt trời vàng, Thu Bồn nói về tương lai bằng những chi tiết gợi cho ta sự liên tưởng khá thú vị: “Cầu đã bắc rồi em./ Đâu phải bắc qua sông/ cầu đã bắc hai bờ khát vọng”. Cả hình ảnh của Thánh Gióng cũng được thể hiện một cách sáng tạo, dân dã, nghộ nghĩnh và gần gũi với đời sống: “Đất nước tôi mơ ngựa sắt/ Vẫn yêu khóm tre ngà/ Nên thánh đều nằm trên gióng” (Quê hương mặt trời vàng).

Có khi sư liên tưởng so sánh đã làm tứ thơ của Thu Bồn thêm độc đáo khi khắc họa hình ảnh người mẹ tảo tần, lam lũ: “Giọt nước mắt mẹ đây khô đắng núi đồi/ Đời mẹ cũng là thân cây lúa/ Tấm lưng trần mang dấu nắng đi qua/ Mẹ địu cả làng trên vai nặng xót xa (Badan khát) .

Ở chương 4 của trường ca Đường tới thành phố, Hữu Thỉnh có những câu thơ đặc biệt giàu sức liên tưởng. Cách cảm nhận về thời gian quá khứ đan xen thời gian tương lai của nhà thơ quả thật lạ lẫm, sắc sảo; mang tính hàm ẩn cao, tạo sự liên tưởng sâu xa như ý thơ: “Cau vườn rụng một tàu đã cũ”.

Nỗi nhớ nhung, trông ngóng của người vợ có chồng đi kháng chiến được Hũu Thỉnh diễn tả: “Ở nhà dài những năm canh/ Từ bậu cửa bước xuống sân


cũng dài”. Có lẽ lấy ý từ “Đêm năm canh ngày sáu khắc” nhưng đầy sáng tạo. Nói “năm canh” là cách tính thời gian về đêm nhưng nói “dài những năm canh” giúp ta liên tưởng đến nỗi chờ đợi trong nhiều đêm, nỗi chờ đợi dài dằng dặc. Những câu thơ không có một từ nào nói về “ban đêm” nhưng có sức khơi gợi cao. Còn khi nhà thơ viết: “Tôi là chỗ thất thường của gió/ Khi người yêu cởi áo trao khăn” (Đường tới thành phố), ta lại liên tưởng đến lời ca: “Thương nhau cởi áo cho nhau/ Về nhà mẹ hỏi qua cầu gió bay”.

Có khi, để thể hiện một lời nhắn gởi xa xôi: cán bộ cách mạng về ở cơ sở, Hữu Thỉnh đã vận dụng nguyên vẹn hai câu ca dao ngọt ngào giàu ý nghĩa: Nhân dân trở về qua tay người móc nối/ Qua lời ru gửi gắm xa xôi/ “Anh quên không mang trăng vào nhà/ Trăng buồn trăng phải sáng qua vườn người”. Cái chất ca dao mộc mạc, giản dị, trầm lắng ấy giúp ta hình dung ra cái cảnh tượng thực tại, một cách cụ thể hơn.

Trong các trường ca, sự liên tưởng không chỉ đơn thuần là sự thể hiện cảm hứng thơ ca mà nó trở thành một điều kiện để thể hiện phong cách sáng tác. Đối với những trường ca mang chất triết lý chính luận, chất trữ tình càng nhiều thì việc sử dụng yếu tố liên tưởng càng cao, có khi được xem là một trong những nguyên tắc kết cấu nội tại của nhiều trường ca và sự liên tưởng có khi được biểu hiện ở những biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ rất gần gũi, nhẹ nhàng.

Lại Nguyên Ân rất quan tâm đến chất thơ trong trường ca: "Không thể nói trường ca hay mà lại không tìm được những câu thơ hay. Ngoài những câu thơ hay rồi còn phải nghĩ tới cái hay ở một tầng nào đó khác nữa. Tôi muốn nói đến những ý tứ nằm trong mạch “chạy suốt” toàn bộ một trường ca...” [3, 122]. “Một tầng nào đó khác nữa” chính là sự liên tưởng.

Có khi sự liên tưởng ấy được thể hiện ở những câu thơ liên tiếp ý miên man từ vấn đề này sang vấn đề khác tưởng chừng không có liên hệ gì với nhau. Nhưng nhìn tổng thể, nhà thơ vẫn bộc lộ một sức khái quát cao trong dàn trải


các ý thơ, nêu bật lên sự phong phú; đa dạng trong nội tâm trong đời sống của con người Việt Nam hiện đại.

Trong trường ca Đường tới thành phố; từ một gốc sim cằn, Hữu Thỉnh đã nghĩ về đất nước: “Nhưng trước mặt là Tổ quốc/ Dù chỉ gốc sim thôi dù chỉ gốc sim cằm”. Người chiến sĩ quyết giữ từng tấc đất cho tổ quốc, và khi anh cảm nhận “cái im lặng hoàn toàn, anh nằm nghe thơ” thì sự liên tưởng lại đưa anh đến một hình ảnh khác thi vị hơn: Ngôi sao xanh rơi xuống lá sim/ Thành giọt sương từ lá sim rơi xuống”. Câu thơ tiếp theo lại chuyển sang một tứ thơ mơ hồ nhưng đằm thắm, tạo sự liên tưởng về tình yêu ngọt ngào: “Hoa bung biêng ơi, con lắc của mùa xuân/ Rừng không ngủ vì những hồi gõ tím”.

Sự liên tưởng mãnh liệt cũng đã đưa hồn thơ của Hữu Thỉnh đến với mảnh đất mười tám thôn vườn trầu với người vợ mỏi mòn ngóng đợi ngày chiến thắng, để không còn cảnh nuôi dấu người chồng là cán bộ địch hậu ở dưới hầm: “Chị đợi chờ quay mặt vào đêm/ Hai mươi năm mong trời chóng tối/ Hai mươi năm cơm phần để nguội/ Thôi tết đừng về nữa chị tôi buồn…”.

Sự liên tưởng của Hữu Thỉnh như là một cách tình cờ, bất chợt nhưng mang ý nghĩa độc đáo, hình ảnh khắc sâu nhờ biện pháp so sánh, đối lập...“chị tôi không thể làm như con rắn que còi”, “chị thiếu anh nên chị bị thừa ra”, “những đêm trở trời trái gió, tay nọ ấp tay kia”, “một mình một mâm cơm, ngồi bên nào cũng lệch”, “chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền”, “chị buồn như bông điệp xé đôi…” (Đường tới thành phố).

Tố Hữu cũng đã có nhiều sự liên tưởng rất mới lạ, điển hình như những vần thơ viết về hình tượng bất tử của Hồ Chủ tịch: “Cứ ngỡ: hồn thơm đang tái sinh/ Ngôi sao ấy lặn hóa bình minh” (Theo chân Bác).

Trong Những người đi tới biển, vết tích chiến tranh cũng trở thành một tứ thơ giàu sự liên tưởng: “Bên hố bom B 52 khét lẹt/ Sao Mai xanh như giếng nước tình cờ”.


Sự liên tưởng của trường ca hiện đại đã gắn kết các sự kiện rất khác nhau, xa nhau tụ về một mối, tạo cho nhà thơ có thể tự do hơn trong bố cục trường ca. Sự liên tưởng ấy hợp lý hay không hợp lý, được chấp nhận hay không là do tài năng của nhà thơ.

Trường ca sử thi hiện đại thường thể hiện những chiêm nghiệm sâu sắc nhất về con người, cuộc sống, đất nước, thế giới và còn đề cập đến những vấn đề đạo đức. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng phương thức liên tưởng để tạo nên một phong cách sáng tác độc đáo cho riêng mình. Trong Mặt đường khát vọng, nhà thơ đã thể hiện một sự cảm nhận hết sức mới mẻ một cách định nghĩa hết sức sáng tạo về đất nước. Đó là hình ảnh đất nước có từ trong những cái ngày xửa; ngày xưa mẹ thường hay kể, trong miếng trầu bà ăn, đất nước từ trong ca dao thần thoại, đất nước rất riêng và cũng rất chung: “đất là nơi anh đến trường,/ nước là nơi em tắm,/ đất nước là nơi đôi ta hò hẹn,…/ đất nước là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc,/ nước nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi…”.

Mỗi định nghĩa khác nhau về đất nước, con người là mỗi một suy nghĩ, trải nghiệm để cuối cùng nhận ra cái cuộc đời hàng ngày vẫn sống, những con người hàng ngày vẫn gặp, mà không hẳn đã hiểu hết cái chất ngọc sáng ngời trong họ: “Tháng năm nào cũng người người lớp lớp/ Con gái con trai bằng tuổi chúng ta/ Cần cù làm lụng/ Khi có giặc người con trai ra trận/ Người con gái trở về nuôi cái cùng con”. Có lẽ chính vì thế mà Nguyễn Khoa Điềm thường triết lý, trình bày những suy nghĩ của mình về nhân dân, đất nước của nhân dân bằng sự liên tưởng bất ngờ: “Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hoá thân cho dáng hình sứ sở/ Làm nên Đất Nước muôn đời” (Mặt đường khát vọng).

Thi pháp học hiện đại đã dành một chỗ đứng vô cùng quan trọng, nếu không nói là quyết định cho từ ngữ vì văn học là nghệ thuật ngôn từ. Và từ ngữ ấy nếu được đặt trong một mối liên tưởng và tương quan mới lạ sẽ tạo nên một

Xem tất cả 223 trang.

Ngày đăng: 17/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí