Giễu Nhại – Một Hiện Tượng Phổ Biến Trong Văn Học Việt Nam Đương Đại

Việc thay đổi nội dung phản ánh tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi về phương thức phản ánh. Bút pháp tiểu thuyết có nhiều thay đổi quan trọng để vừa khuôn với bản chất của hiện thực và con người. Bút pháp tả thực, bút pháp huyền thoại hóa, bút pháp giễu nhại,… là những bút pháp tiêu biểu nhất của tiểu thuyết Việt Nam hiện nay.

2. Tiểu thuyết Việt Nam vận động phát triển theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Sự phân chia khuynh hướng chỉ mang tính chất tương đối do xuất phát từ các cách tiếp cận. Với nhiệm vụ nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết LVB, chúng tôi chú ý đến hai khuynh hướng nổi bật là khuynh hướng tiểu thuyết hậu hiện đại và khuynh hướng tiểu theo lối hư cấu lịch sử. Ở khuynh hướng tiểu thuyết Việt Nam đương đại mang dấu ấn hậu hiện đại, các nhà văn xem tiểu thuyết như là một trò chơi VB. Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Thuận,… là những tác giả có ý thức “chơi thể loại” tiểu thuyết bằng nhiều phương cách khác nhau. Các nhà văn đã có ý thức cao trong việc phá vỡ mô hình tiểu thuyết cũ để thực hiện xây dựng tiểu thuyết như kỹ thuật tổ chức của một trò chơi. Viết trở thành câu chuyện của quá trình viết, của cách thức tổ chức VB mà trong đó, chủ thể tham gia trò chơi quan trọng nhất chính là người đọc, mỗi người sẽ tham gia luật chơi theo cách thức của riêng mình. Tác phẩm văn chương vì thế luôn ở dạng chưa hoàn kết, luôn tái nhận biết, sự sinh nghĩa diễn ra liên tục. Đây là mấu chốt của tính LVB. Ở khuynh hướng tiểu thuyết theo lối lịch sử, một số tác phẩm mờ nhạt dấu hiệu của tính hậu hiện đại mà mang phong cách của tiểu thuyết theo lối viết truyền thống. Hai kĩ thuật quan trọng nhất của khuynh hướng này chính là việc viết lại lịch sử và tương tác thể loại. Quá trình viết lại trên dẫn đến xu hướng giải huyền thoại, một xu hướng thể hiện rõ đặc tính của LVB trong tiểu thuyết. Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo, Nguyễn Mộng Giác, Hoàng Quốc Hải, Tạ Duy Anh,... là những tác giả tiêu biểu cho khuynh hướng trên.

3. Những đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại có những tiền đề kết nối LVB rộng lớn, ra ngoài phạm vi của VB. Thực tế đó đã đòi hỏi những cách tiếp cận mới, một trong số đó là tiếp cận từ lý thuyết tính LVB.

Tóm lại, ngữ cảnh văn hóa mới đã cho tiểu thuyết Việt Nam tiệm cận với xu thế vận động của văn học thế giới trên nhiều lĩnh vực, từ tư tuy sáng tác, đến kỹ thuật tự sự, đến lý luận phê bình và các vấn đề về tiếp nhận văn học. Dù theo khuynh hướng nào, tiểu thuyết Việt Nam đương đại đang chứa đựng rất nhiều những vấn đề của tính LVB như: giễu nhại, tương tác thể loại, viết lại lịch sử,… Đây là vấn đề chính mà chúng tôi sẽ tiếp tục triển khai ở các chương sau của luận án.

Chương 3

GIỄU NHẠI TRONG TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI


3.1. Giễu nhại – một hiện tượng phổ biến trong văn học Việt Nam đương đại

3.1.1. Giễu nhại như là hiện tượng liên văn bản

Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đã định nghĩa nhại như sau “Một thể văn châm biếm dùng sự bắt chước để chế giễu một tác phẩm hoặc cả một trào lưu nghệ thuật. Phương tiện chủ yếu của nhại là bắt chước phong cách. Hai kiểu nhại chủ yếu (đôi khi tách thành những thể tài riêng) là kiểu khôi hài trong đó đối tượng thấp được trình bày bằng một phong cách cao; và kiểu chế nhạo trong đó đối tượng cao được trình bày bằng phong cách thấp. Sự chế nhạo có thể nhằm vào phong cách, có thể nhằm vào đề tài có thể cười nhạo những thủ pháp thi ca đã trở thành khuôn sáo, lỗi thời, hoặc những hiện tượng đời sống vốn dung tục không xứng với thi ca. Có thể có lối nhại một thi pháp, một tác giả, một thể loại, một thế giới quan…” [57, tr.155].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 168 trang tài liệu này.

Giễu nhại chính là sự “chế nhại” những gì đã trở thành lối mòn, thành khuôn sáo đến mức máy móc, tự động nên đã quá quen thuộc nên không còn tính mới mẻ cho văn học. Quá trình chế nhại cũng là quá trình đã đặt tất cả những gì được xem là xơ cứng, khuôn sáo của tiền VB vào ngữ cảnh mới mà ở ngữ cảnh mới đó, tiền VB được cải biến làm cho nó có những chức năng, những hiệu quả thi ca mới nhưng không hề phá hủy đi những giá trị cũ. Với khả năng này, giễu nhại góp phần làm cho văn học có sự vận động và phát triển không ngừng. Tư tưởng tiên phong của các nhà Hình thức luận Nga đã trở thành tiền đề xuất phát làm ảnh hưởng sâu sắc đến các nghiên cứu sau này về giễu nhại. Trước hết phải kể đến Bakhtin. Quan điểm về giễu nhại của Bakhtin thể hiện rất rõ trong công trình Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và phục hưng. Giễu nhại của Bakhtin gắn liền với tính đối thoại, nó được xem là hình thức của tiểu thuyết đa thanh phức điệu. Ông chia

sự lặp lại thành hai dạng: lời nói phong cách hóa (không có hàm ý mỉa mai) và lời văn hai giọng (có hàm ý mỉa mai). Bakhtin xem lời văn nhại như một loại lời văn hai giọng đặc trưng và ông giải thích lời văn hai giọng như sau “Ở đây, tác giả, cũng giống như trong sự phong cách hóa, nói bằng giọng của kẻ khác, nhưng khác với sự phong cách hóa, anh ta đưa vào trong đó một khuynh hướng nghĩa đối lập hẳn với khuynh hướng của lời người đó. Giọng thứ hai sau khi chuyển vào trong lời nói của người khác thì xung đột thù nghịch với chủ nhân vốn có của nó và buộc nó phục vụ trực tiếp cho các mục đích đối lập của mình. Lời nói trở thành vũ đài vật lộn của hai giọng.” [8, tr.187]. Tuy có chịu ảnh hưởng quan niệm của Chủ nghĩa hình thức Nga, nhưng sự tiến bộ của Bakhtin thể hiện ở việc ông xem parody/nhại cũng là một kiểu carnival hóa và ông đặt sự phát triển của văn chương trong bối cảnh xã hội/văn hóa mà ở đó nhại chính là vấn đề trung tâm, là yếu tố không thể thiếu của mọi loại hình carnival hóa nói chung “tiếng cười có một sức mạnh tuyệt vời kéo đối tượng lại gần, tiếng cười lôi cuốn đối tượng vào khu vực xúc tiếp thân mật đến thô bạo, ở đó có thể suồng sã sờ mó nó từ khắp phía, lật ngửa, lộn trái, nhòm ngó từ dưới và từ trên, đập vỡ vỏ ngoài để nhìn vào bên trong, hồ nghi, phân tích, chia cắt, bóc trần và vạch trần, nghiên cứu và thử nghiệm một cách tự do.” [2, tr.50]. Quan niệm của Bakhtin về giễu nhại trên đây đã trở thành những tiền đề quan trọng có ảnh hưởng đến các quan điểm của các nhà lập thuyết sau này. Với Genette, giễu nhại là nội dung trung tâm nhất trong công trình có tên: Văn chương ở bậc hai (Palimpsests: Literature in Second Degree). Từ “palimpsests” là từ mà nội hàm của nó đã mang ý nghĩa ẩn dụ cho tất cả các hình thức thậm phồn VB hoặc sự viết lại VB. Trong đó giễu nhại được xem là một trong những hình thức làm thậm phồn VB. Ông phân thành hai kiểu quan hệ giữa thượng VB (hypertext) và hạ VB (hypotext). Theo đó, giễu nhại (parody) hình thành trên cơ sở của mối quan hệ cải biến (transformation) hạ VB và dạng thứ hai là phỏng nhại (pastiche) hình thành trên cơ sở bắt chước (imitation) hạ VB. Theo ông, những VB riêng biệt, cá nhân mới có thể giễu nhại còn những trường hợp

Tiểu thuyết Việt Nam đương đại nhìn từ lý thuyết liên văn bản - 11

phong cách, thể loại được cho là phỏng nhại. Sự phân biệt các hình thức giễu nhại, phỏng nhại trên đã thu hẹp rất lớn phạm vi của giễu nhại. Hutcheon lại có quan niệm giễu nhại rộng hơn, với bà, “tất cả các VB văn học đều giễu nhại nhau và dấu hiệu để nhận biết văn học hậu hiện đại là ở chỗ nó giễu nhại một cách có ý thức và mang tính chính trị rõ nét.”. [102, tr.327]. Mặc dù có chịu ảnh hưởng bởi một số tư tưởng của Genette, nhưng quan điểm của Hutcheon có những sự khác biệt nhất định thậm chí là đối lập với Genette. Bà đã chỉ ra VB bị nhại không phải là mục tiêu tấn công của giễu nhại. Giễu nhại là một trong những hình thức diễn ngôn liên nghệ thuật có chủ ý của quá trình “chuyển dịch văn cảnh hóa” [101, tr.16). Hutcheon cho rằng “Genette muốn giới hạn nhại với những VB ngắn như các bài thơ, các thành ngữ, chơi chữ, nhan đề, nhưng nhại hiện đại không tính tới sự giới hạn này – trong đó parody/nhại như một sự chuyển dạng tối giản của một VB khác” [101, tr.16], “nhại sẽ là một hình thức mở rộng, có thể là một thể loại, hơn là một kĩ thuật, vì nó có bản sắc cấu trúc của riêng nó và chức năng diễn giải của riêng nó.” [101, tr.16]. Hutcheon giảm trừ đặc tính hài hước của giễu nhại trong khi đặc tính này lại là quan điểm nổi bật của Genette. Quan tâm vai trò của người đọc, giễu nhại không thể tồn tại và hoạt động nếu không có sự tri nhận của người đọc. Vai trò tri nhận của người đọc chính là một trong những phát hiện mới mẻ của Hutcheon so với các nhà lập thuyết trước đó, quan điểm này đưa giễu nhại tiệm cận với quan điểm của lý thuyết văn học hậu hiện đại.

Giễu nhại trở thành một phương thức tiêu biểu, là dấu hiệu của văn học hậu hiện đại như khẳng định của I.P.Ilin và nhiều nhà nghiên cứu Phương Tây “… tự giễu nhại như một phương thức tiêu biểu mà nhà văn hậu hiện đại muốn dùng để chống chọi với “cái ngôn ngữ dối trá về thực chất” và, do là người “hoài nghi chủ nghĩa triệt để, nhà văn hậu hiện đại cho rằng cái thế giới dị thường này thật vô nghĩa và đã đánh mất mọi cơ sở. Chính vì vậy, “bằng việc cung cấp cho chúng ta thiên mô phỏng tiểu thuyết của thứ tác giả mô phỏng vai trò tác giả…” nhà tiểu thuyết hậu hiện đại “giễu nhại chính bản thân mình bằng

hành vi giễu nhại” [66, tr.434]. Giễu nhại thuộc về phương pháp cải biến hạ VB, phỏng nhại thuộc về phương pháp bắt chước hạ VB. Giễu nhại nghiêng về phương diện cú pháp và ngữ nghĩa, phỏng nhại nghiêng về phương diện ngữ dụng. Như vậy, thuật ngữ giễu nhại luôn gắn liền với cái hài: “có điều, theo hầu hết giới nghiên cứu, dù nhìn từ góc cạnh nào thì giễu nhại cũng có hai đặc điểm chính: nhại và giễu, tức bắt chước và châm biếm.” [102]. Giễu nhại luôn gắn liền với hiện thực và không thoát ly khỏi hiện thực cuộc sống. Giễu nhại là một trong những hình thức LVB quan trọng của tiểu thuyết VN đương đại. Đây có thể xem là một trong những kĩ thuật trung tâm nhất tạo nên bức tranh đầy màu sắc của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, là đối tượng nghiên cứu chính mà luận án sẽ triển khai trong chương tiếp theo.

3.1.2. Vấn đề nghiên cứu hiện tượng giễu nhại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

Ở Việt Nam, giễu nhại không phải là thuật ngữ hoàn toàn mới. Hành vi giễu nhại trước hết đã được sử dụng trong các hình thức nghệ thuật dân gian, tiêu biểu nhất là nghệ thuật chèo. Việc phân ra các vai hề chèo theo từng nhóm (hề áo ngắn, hề áo dài,..) trong chèo thể hiện ý thức của nhân dân Việt Nam trong việc mượn các hình ảnh lệch so với đời thường nhằm tự trào hoặc đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội phong kiến. Điều này cũng gặp ở loại hình văn học dân gian như: ca dao, truyện cười (truyện trạng), truyện ngụ ngôn,… Trong các loại hình dân gian, hiện tượng bắt chước có khi chỉ đơn thuần tạo tiếng cười mua vui, hài hước, nhưng cũng có khi là sự châm biếm, chế giễu. Giễu nhại trong văn học viết thời Trung đại tiêu biểu nhất là thơ của Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,… Lớp ngôn ngữ giễu nhại thường là trực tiếp phơi bày bản chất đối tượng, có khi thông qua ngôn ngữ bóng bẩy, ví von, so sánh. Những bài thơ vịnh của Hồ Xuân Hương (Vịnh cái chuông, Vịnh cái quạt, Vịnh hoa cúc…), của Nguyễn Khuyến (Vịnh Tiến sỹ giấy) thuộc dạng này. Đối với văn học Việt Nam hiện đại, giễu nhại là công cụ hữu hiệu cho loại

tiểu thuyết hoạt kê, trào phúng mà Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan là những cây bút tiêu biểu.

Từ sau năm 1986, văn học Việt Nam bắt đầu đã có những biến đổi mạnh mẽ hơn về nội dung và hình thức để bắt kịp dòng chảy của thời đại và tiếp cận với tư duy hậu hiện đại bằng cách bắt đầu đi ra khỏi những quy phạm, những ràng buộc và vận động cho phù hợp với sự vận động nội tại của xã hội. Trong tiến trình vận động trên, phương thức giễu nhại đồng thời cũng bước ra khỏi mô phạm của hai cuộc chiến và trong văn học Việt Nam đương đại, giễu nhại trở thành một trong những phương tiện quan trọng để nhà văn tiếp cận đời sống trên tinh thần dân chủ, đa nguyên và từ đó là hướng tới sự giải thiêng những giá trị, lật đổ những quy phạm đã từng ăn sâu kiên cố trong tư duy văn học cả về hình thức lẫn nội dung. Nguyễn Thị Bình, khi tìm hiểu Một hướng thể nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam gần đây đã nhận xét việc sử dụng bút pháp nhại “không chỉ là một hình thức giải thiêng, làm mất giá đối tượng mà chính là quan niệm về bản chất dân chủ của thể loại.” [18]. Như vậy, yêu cầu đổi mới văn học là tất yếu để phù hợp với sự vận động và biến đổi của đời sống xã hội. Tư duy văn học đã dần hình thành tạo nên những thay đổi quan niệm về chức năng của văn học, về mối quan hệ giữa nhà văn và bạn đọc, mối quan hệ giữa văn học và đời sống. Chính điều này đã chi phối cách nhà văn tiếp cận hiện thực và hình thành những thủ pháp nghệ thuật riêng. Hiện thực cuộc sống phồn tạp được soi chiếu bằng cái nhìn đa diện, đa chiều. Trong sự soi chiếu đó, giễu nhại là công cụ đắc lực hỗ trợ nhà văn nhìn thẳng vào sự thật, khám phá hiện thực bằng cái nhìn hoài nghi, giải thiêng những vấn đề từng được xem là chính thống và có giá trị ổn định. Trong bài viết Nhìn lại những bước đi, lắng nghe những tiếng nói, Lã Nguyên đã nhận xét: “Giọng lu loa, sừng sộ, tiếng gầm gào cuộn réo trong văn học thời đổi mới không thể cất lên thành tiếng hát. Cái vô lý, cái phi lý chất văn xuôi và vẻ đẹp của đời sống phồn tạp chỉ có thể hóa thân vào tiếng cười trào tếu, giễu nhại để văn học thế sự biến thành tiếng nói nghệ thuật. Hình thức giễu nhại đã trở thành kiểu quan hệ đời sống mang phong cách

thời đại” [90, tr.66]. Nguyễn Đăng Điệp cũng đã khẳng định “Trong truyện Hồ Anh Thái, nhất là giai đoạn sau, ta bắt gặp khá nhiều chất giọng giễu nhại. Sự xuất hiện của loại giọng này hiếm khi xuất hiện trong tư duy sử thi. Cái nụ cười chua chát về cõi nhân sinh, khả năng lật tẩy những sự trớ trêu, nghịch cảnh trong đời chỉ có thể có được khi nhà văn không nhìn đời bằng cảm hứng lãng mạn thuần túy màu hồng mà nhìn nó như những mảnh vỡ” [117, tr.357-358]. Giễu nhại trở thành kiểu quan hệ đời sống mang phong cách thời đại và là đối tượng cần được nghiên cứu và đánh giá cẩn trọng.

Bước chuyển mình của tiểu thuyết VN đương đại tập trung chủ yếu ở việc nhà văn đương đại luôn để cho tác phẩm vận động trong một không gian đa chiều kích, mà ở đó các VB kết dính thành một mắc xích. Người đọc phải không ngừng tháo gỡ để tiến hành thâm nhập vào tác phẩm và biến nó thành sản phẩm của chính mình.

Luận án tập trung nghiên cứu những chủ đề, phương thức và hiệu quả của giễu nhại trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại mang dấu ấn hậu hiện đại. Vấn đề nghiên cứu được phân tích, nhận định và đánh giá dưới góc nhìn của lý thuyết LVB từ đó hướng tới việc nhìn nhận khái quát những đóng góp cũng như bước phát triển (hay hạn chế nếu có) của văn học Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Các phương thức giễu nhại tiêu biểu trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại

3.2.1. Trích dẫn nhại

3.2.1.1. Định nghĩa Trích dẫn

Theo Kristeva thì “VB là mô kết hợp (connective tissue) của các trích dẫn” [101], Compagnon xem việc trích dẫn chính là cái sẽ tạo con đường cho sự nhại và những thứ tương tự, đây thường được xem như miếng giấy quỳ cho phép thử hậu hiện đại. Hình thức trích dẫn là một trong những dấu hiệu cơ bản và dễ nhận ra nhât của tính LVB. Trích dẫn là hành động tái tạo lại, dẫn ra một cách chính xác từng từ, từng đoạn văn,... từ một nguồn tài liệu gốc nào đó có

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/09/2022