quát những vấn đề của lịch sử…), đồng thời nghiên cứu về sự phát triển của thể loại đặc biệt này.
Có thể kể đến một số bài viết đăng trên các tạp chí, các sách:
- Tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/1975 có bài viết bàn về thể loại trường ca của Lại Nguyên Ân, số 1, 2. 3/1981 có bài viết của Hữu Thỉnh, Từ Sơn, Hoài Thanh, Trần Ngọc Vương, Phạm Tiến Duật…
- Trên TC VH số 6/1982 có bài viết của Đỗ Văn Khang, Vũ Đức Phúc… số 3/1984 có bài của Hoàng Ngọc Hiến, số 3,4/1988 của Mã Giang Lân...
- Trên GDTĐ- 2002 có bài của Đào Thị Bình; trên Tạp chí Văn nghệ QĐ, báo Nhân Dân, Văn nghệ Trẻ năm 2007 - 2008 có bài viết của Vũ Tuấn Anh, Nguyễn Hữu Quý... Gần đây, có bài viết của Trần Đình Sử (báo mạng- 4/2010).
Về sách đã in:
- Lại Nguyên Ân có tác phẩm Văn học và phê bình (Nxb Tác phẩm mới - 1984) trong đó có nhiều trang bàn luận về trường ca.
- Vũ Văn Sỹ có tập Về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam 1945 - 1995 (Nxb KHXH - 1999) đi sâu vào việc tìm hiểu thi pháp trường ca; trong tập tiểu luận Mạch thơ trong nguồn thế kỷ (Nxb KHXH - 2005), ông cũng có bài viết “Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại” [85, tr.137].
- Phạm Quốc Ca với chuyên luận Mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại 1975 - 2000 (Nxb Hội Nhà Văn - 2003), qua bài viết: “Sự biến đổi của trường ca” đã góp thêm tiếng nói về thể thơ ca này [11, tr.177-183].
Có thể bạn quan tâm!
- Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam - Nguyễn Thị Liên Tâm - 1
- Những Ý Kiến Phê Bình, Nhận Định Về Các Tác Giả Và Các Trường Ca Tiêu Biểu
- Những Nhân Tố Khách Quan Tạo Nên Sự Xuất Hiện Của Trường Ca
- Sự Gắn Kết Giữa Yếu Tố Thời Đại Và Dân Tộc
Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.
Sau đây, chúng tôi xin được tóm lược lại những vấn đề có liên quan đến thuật ngữ “trường ca”, sự phát triển thể loại mà các nhà nghiên cứu đã đề cập trên cơ sở có bổ sung cẩn trọng:
Trong bài “Mấy suy nghĩ về thể loại trường ca” (TCVH số 4/1975) sau này in lại trong Văn học và phê bình (5), Lại Nguyên Ân đã đề nghị gọi chung những tác phẩm thơ dài là trường ca. Quan niệm này, có người đồng ý nhưng cũng có người không chấp nhận. Sau này, trong bài “Bàn góp về trường ca”
(4), ông cho rằng “hình như ai cũng đúng cả”. Thực sự, đề nghị của ông về cách gọi tên chung như thế không phù hợp với đặc trưng riêng của thể loại trường ca vì thơ dài khác với trường ca, thơ dài không cần thiết chứa đựng nội dung lịch sử, cảm hứng sử thi, không gian sử thi... Những nghiên cứu của Lại Nguyên Ân là một đóng góp thiết thực cho việc nhận định về con đường phát triển của trường ca.
Từ Sơn, trong bài “Về khái niệm trường ca” (TCVNQĐ số 1/1981) cho rằng trường ca "là thơ chứ không phải là ca" [80, tr.120]. Theo ông, nên dùng thuật ngữ trường ca cho những bài thơ dài có cốt truyện tự sự trên 500 câu và nên gọi chung là truyện thơ. Cách lý giải của Từ Sơn nghiêng về việc lấy nghĩa gốc của thuật ngữ “trường ca” để đặt tên cho thể loại.
Cũng trên Tạp chí Văn nghệ quân đội số 5/1981, Hoài Thanh có bài "Thơ và chuyện trong thơ". Ông cho rằng: Ba mươi năm đời ta có Đảng, Nước non ngàn dặm, Theo chân Bác của Tố Hữu và cả Trường ca Nguyễn Văn Trỗi của Lê Anh Xuân đều là truyện thơ. Như vậy, theo Hoài Thanh, "truyện thơ" và "trường ca" cũng chưa được phân định cụ thể như quan niệm hiện nay.
Trần Ngọc Vượng, trong bài “Về thể loại trường ca và tính chất của nó” (Tạp chí VNQĐ số 5/1981), đã đưa ra những nhận định tinh tế, phân biệt sự khác nhau giữa trường ca và truyện thơ, thơ dài. Theo ông "trường ca của ta bây giờ không phải cùng khuôn với các thể loại đã từng có mặt trong lịch sử văn học" [11, tr.129]. Những lập luận để phân biệt trường ca với khúc ngâm, truyện thơ, thơ dài mà ông đưa ra khá hợp lý: trường ca phân biệt với thơ dài trước hết ở dung lượng cảm hứng, “cảm hứng đó là linh hồn của trường ca", và chỉ có thể xuất hiện ở một thời đại cách mạng [114, tr.129]. Đây là một nhận định khá sâu, góp phần xác định đặc điểm thể loại và lý giải vì sao giai đoạn này trường ca nở rộ.
Năm 1982, Mã Giang Lân đã góp tiếng nói bàn về thể loại trường ca trong bài "Trường ca, vấn đề thể loại" đăng trên TCVH số 6. Ông nhận xét rằng:
"Lâu nay các nhà nghiên cứu phê bình văn học thường dùng thuật ngữ "trường ca" để chỉ về một thể loại văn học thời kỳ thượng cổ như trường ca Đăm San, trường ca Xing Nhã... của đồng bào Tây Nguyên; trường ca Đẻ đất đẻ nước của người Mường… hoặc tuỳ tiện cho tất cả những sáng tác thơ dài đều là trường ca cả” [45, tr.104]. Sau khi dẫn ra một số tác phẩm thơ dài và trường ca để phân tích, lý giải về mặt thể loại, Mã Giang Lân đi đến khẳng định: "Thơ dài và trường ca có những nét tương đồng như sử dụng tổng hợp nhiều thể thơ, thay đổi không khí cảm xúc, hạn chế sự bằng phẳng đơn điệu, thường khai thác và biểu hiện cái đẹp cái cao cả, cái anh hùng. Nhưng ở trường ca bộc lộ rõ nội dung ca ngợi, hào hùng, nên cảm hứng anh hùng phải là mạch cảm xúc chủ đạo” [45, tr.108-109].
Cuối cùng tác giả đưa ra kết luận có tính khái quát: “Đường đi của sử thi… là đến tiểu thuyết. Còn thơ trữ tình là cái nôi của trường ca và thơ dài. Trường ca đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo trên các yếu tố cơ bản của thơ trữ tình và sử thi nghĩa là kết hợp cả hai phương thức biểu hiện: trữ tình và tự sự" [45, tr.152]. Nghiên cứu của Mã Giang Lân đã giúp cho chúng tôi có một sự phân định về trường ca và thơ dài khá rõ ràng.
Vũ Đức Phúc cũng rất quan tâm đến thể loại trường ca nên trên Tạp chí Văn học số 6/1982, ông có bài viết “Chung quanh vấn đề trường ca". Cũng như Từ Sơn, ông nhận xét về nghĩa và cách dùng thuật ngữ "trường ca". Theo ông: "trường ca là một thuật ngữ văn học mới, chưa chính xác, chưa ổn định, để chỉ các sáng tác thơ dài" [73, tr.93] "khoảng từ bốn, năm trăm câu trở lên [72, tr.94] và phải có sức "lay động được con tim người đọc” một cách mạnh mẽ, "thời đại ta đòi hỏi phải có trường ca anh hùng" [72, tr.99]. Ông cho rằng: khi viết trường ca, nếu viết bằng một thể thơ thì “trường ca dễ đơn điệu” [72, tr.101-102]. Chúng tôi hoàn toàn thống nhất với nhận xét trên. Theo ông: "Theo chân Bác là một thiên trường ca" [72, tr.100], và Tố Hữu đã phối hợp giữa anh hùng ca với trữ tình trên cái nền gợi lại sự kiện lịch sử. Nhìn chung bài viết của
Vũ Đức Phúc đã khẳng định lại những vấn đề mà một số nhà nghiên cứu trước đó nêu ra: trường ca phải được xây dựng trên nền sự kiện lịch sử, độ dài cần vừa phải, cần có sự pha trộn, thể loại và yếu tố trữ tình rất quan trọng. Đặc biệt, ông cho rằng yếu tố tự sự chỉ là phần độn thêm, điều này đối lập với ý kiến của Đỗ Văn Khang khi cho rằng các trường ca đều cố gắng lấy tự sự làm chính.
Trên Tạp chí Văn học số 6/1982, trong bài “Từ ý kiến về trường ca sử thi của Hêghen đến trường ca hiện đại ở ta", Đỗ Văn Khang đã dẫn ra ý kiến của Hêghen viết về trường ca sử thi (Mỹ học Hêghen - 1836) để làm nền tảng cho những lập luận của mình về “trường ca hiện đại Việt Nam"; cụ thể là về: nguồn gốc sử thi, sức khái quát của trường ca sử thi, xung đột sử thi, tính cách sử thi, chi tiết trong trường ca sử thi. Căn cứ vào công trình nghiên cứu sử thi của Hêghen, ông xem xét trường ca ở các điểm sau đây:
+ "Chất khái quát tổng thể lịch sử, phong cách đồ sộ" [38, tr.87], trong đó chú ý đến tính chất xung đột mang tính lịch sử.
+ "Các cá tính của trạng thái thế giới dân tộc rất mãnh liệt được biểu hiện qua cái tôi nhà thơ" [38. tr.87].
+ "Vai trò của chi tiết trong trường ca… Cách tổ chức liên chương, liên đoạn” [38, tr.90].
+ "Trường ca hướng về các biến cố trung tâm” [38, tr.91 cố gắng lấy tự sự làm chính, "hình thức kể" là nhân tố quan trọng góp phần làm nên trường ca.
Đây là những ý kiến, những lập luận cơ bản dựa vào Mỹ học Hêghen. Ông cũng không loại trừ hoàn toàn sự biến dạng của thể loại trường ca trong quá trình vận động của lịch sử xã hội và thực tiễn đời sống văn học nước ta. Từ những lập luận nêu trên, Đỗ Văn Khang đề nghị nên gọi những bài thơ đúng bản chất, có ý nghĩa mỹ học đầy đủ là "trường ca sử thi hiện đại". Bản thân người viết cũng đồng quan điểm về tên gọi trường ca sử thi hiện đại và rất quan tâm đến “trạng thái dân tộc rất mãnh liệt biểu hiện qua cái tôi nhà thơ, cái tôi chứng nhân lịch sử” mà Đỗ Văn Khang đã nghiên cứu.
Cũng trong năm 1982, Lại Nguyên Ân có bài "Thể trường ca trong thơ gần đây" in ra trong Văn học và phê bình (5). Theo ông, trong phạm vi thơ hiện đại ở ta, vẫn còn đủ thận trọng để “coi trường ca như là một thể loại đang hình thành và phát triển với yếu tố trữ tình là yếu tố chủ đạo” [5, tr.8]. Ông nhận định: "Thể tài trường ca là biểu hiện cụ thể của xu hướng sử thi hóa" [5, tr.22]. Ý kiến này giúp người viết tìm hiểu sâu về vấn đề thể loại và tính chất sử thi, trữ tình trong trường ca về thời chống Mỹ.
Phạm Huy Thông, nhà thơ nổi danh với Tiếng địch sông Ô - phỏng tích Trương Lương dùng tiếng địch làm tan nát hàng ngũ quân sỹ Hạng Võ; đã có báo cáo tại hội nghị khoa học về Trường ca do Khoa Văn Đại học Tổng hợp tổ chức (1983). Trong phần II mang tựa "Trường ca", Phạm Huy Thông đã khẳng định “độ dài của trường ca là một yếu tố thuận. Độ dài góp phần cấp trọng lượng cho chất tráng của thi ca" [98, tr.12]. Phương châm của Huy Thông là "linh hoạt để sát hợp" [98, tr.17]. Bản thân người viết đồng tình với quan điểm: độ dài cần linh hoạt, độ dài là yếu tố thuận, mà điều này thơ ngắn khó đạt được khi cần khái quát vấn đề lớn lao của lịch sử, phản ánh cảm xúc mãnh liệt của cái tôi chứng nhân lịch sử.
Hoàng Ngọc Hiến có những ý kiến được trình bày khá rõ trong bài "Về đặc trưng của trường ca” (TCVH số 3/1984), đặc biệt là những nhận định quan trọng về đặc trưng thể loại trường ca của Biêlinxki, của giáo sư A.N.Sô- kô-lôv chuyên nghiên cứu về trường ca [28, tr.116]. Đồng thời, ông cũng giới thiệu một số thành tựu về trường ca của nền văn học Xô viết và cuộc thảo luận về trường ca kéo dài trên ba tháng đăng ở báo Văn học Liên Xô [28, tr.110]. Ông hoàn toàn nhất trí với ý kiến của Biêlinxki: "Trường ca chỉ là một thể loại tác phẩm thơ đặc biệt... có nội dung lớn và dung lượng lớn”, "tương quan giữa nguyên tắc trữ tình và nguyên tắc tự sự là một vấn đề trung tâm của thi pháp trường ca; trong trường ca hiện đại, xu thế trữ tình lấn át tự sự” [28, tr.111- 110]. Cách lập luận và giải quyết vấn đề của ông dễ hiểu, phù hợp với cách
hiểu hiện nay về thể loại trường ca, nhất là nhận định: xu thế trữ tình trong trường ca hiện nay lấn át tự sự. Tuy vậy, ta cũng không loại trừ có trường ca viết ở thời gian sau này như Những cánh đồng dưới lửa của Văn Lê, Đi trong sen ngát bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh lại thiên về xu hướng tự sự.
Vấn đề phân định thể loại trường ca và thơ dài đã khiến Mã Giang Lân trăn trở và viết tiếp bài “Thử phân định giữa ranh giới trường ca và thơ dài" (Tạp chí Văn học số 5,6/1988). Trong cuốn “Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam”, ở phần "Xu hướng mở rộng dung lượng phản ánh" [47, tr.356], ông cũng tập trung đi sâu vào việc tìm sự giống nhau và khác nhau của hai loại này. Theo ông, “trường ca có kết cấu rõ và hoàn chỉnh hơn; thể thơ đa dạng; nhân vật có đường nét, tâm trạng hơn; nhịp điệu, nhạc điệu trong trường ca sôi nổi, hào hùng hơn; yếu tố tự sự và trữ tình bổ sung cho nhau; đề tài: thuộc về hiện tại mà tác giả từng sống, chứng kiến”. Đây là một sự nghiên cứu khá công phu, giúp ta thấy được sự tương đồng và khác biệt giữa trường ca và thơ dài.
Sự ra đời mạnh mẽ của trường ca đã trở thành một hiện tượng văn học nổi bật trong đời sống thơ ca. Tháng 3/2002, trên Tạp chí Giáo dục số 26, Đào Thị Bình có bài "Góp phần tìm hiểu trường ca viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước". Đây là một bài viết có giá trị, tổng kết lại một số ưu điểm nổi trội của trường ca; giúp ta có một cái nhìn bao quát về thể loại; mở ra hướng mới khi nghiên cứu, nhất là "chất suy nghĩ và triết lý", "chất trí tuệ chính luận" [10, tr.30-31] trong trường ca.
Phạm Quốc Ca, trong chuyên luận Mấy vấn đề về thơ Việt Nam hiện đại 1975 - 2000 (Nxb Hội Nhà Văn - 2003) đã dành nhiều trang để viết về thể loại trường ca. Ông nhận định “về tên gọi thể loại trường ca đã có sự không rạch ròi… Do sự thâm nhập, hòa trộn giữa các thể loại... người ta đã gọi các tác phẩm khá khác nhau bằng một cái tên chung là trường ca” [11, tr.178]. Theo ông: có sự khác nhau khá rõ, chủ yếu là ở phương thức sáng tác; truyện thơ gắn với nhân vật và kết cấu, cốt truyện; thơ dài gắn với cảm xúc trữ tình; trường ca
phân biệt ở chỗ dù có cốt truyện hay không, nó phải mang cảm hứng lớn về nhân dân, về tổ quốc, về thời đại [11, tr.179]. Đây là những nhận xét khá thống nhất với nhận định của các nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, Vũ Đức Phúc, Mã Giang Lân, Trần Ngọc Vượng… về cảm hứng sử thi, kết cấu, cái tôi trữ tình… trong trường ca.
Tuy nhiên, cuối cùng, trong cách lập luận của tác giả vẫn có một vài điểm chưa thống nhất khi nói rằng: “cho đến nay, vẫn rất khó phân biệt giữa trường ca, truyện thơ, và thơ dài” [11, tr.178]. Về vấn đề này, người viết đã trình bày trong phần mở đầu luận văn Cao học “Đặc điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ ”: trường ca hiện đại có thể có cốt truyện hoặc không cần cốt truyện như truyện thơ nhưng phải mang cảm hứng lớn về nhân dân, tổ quốc, thời đại (cảm xúc trữ tình dễ lẫn với thơ dài). Đặc trưng nổi bật của trường ca giai đoạn 1960 - 1980 biểu hiện xu hướng sử thi hóa, âm điệu hào hùng, giọng điệu ngợi ca. Trường ca ra đời sau 1980 thường đậm chất hồi tưởng, trăn trở, bi tráng.
Vũ Văn Sỹ, trong phần thứ nhất của tập Mạch thơ trong nguồn thế kỷ [85] đã cho in lại một số tiểu luận có liên quan đến trường ca như: “Hiện tượng đối thoại với quan niệm nghệ thuật sử thi trong thơ” (TCVH số 4/1990, tr 98); “Thành tựu và giới hạn lịch sử” (TCVH số 6/1990, tr 85): “Trường ca trong hệ thống thể loại thơ Việt Nam hiện đại” (TCVH số 137/2000)... Trong đó, ông đã có những nhận định, đánh giá rất khách quan và sâu sắc về thể loại trường ca, thiên về ý kiến cho rằng trường ca là một hiện tượng thâm nhập của thể loại. Nhưng ông cũng không tránh khỏi băn khoăn khi đặt ra câu hỏi: “Liệu có những nguyên tắc cho sự mềm dẻo của kết cấu trường ca? và phải chăng trường ca đã thay thế cho truyện thơ” [85, tr.138-139]. Sau đó, chính ông cũng đã lý giải: “Trường ca kế thừa truyện thơ nói riêng và những kinh nghiệm tự sự của thơ ca nói chung... Chính vì thế, về bản chất, trường ca khác với truyện thơ truyền thống, khác với truờng ca cổ điển nhưng lại gần gũi với thơ trữ tình”.
Theo ông, trường ca lấy sự trưởng thành của ý thức làm thước đo các biến cố và sự kiện, là căn cứ để phân biệt bản chất giữa trường ca và truyện thơ truyền thống. Đây là vấn đề mà luận án chúng tôi tập trung nghiên cứu.
Lê Thành Nghị, tác giả của tập Tiểu luận Trước đèn... thơ có những lập luận tương đồng ý kiến Vũ Văn Sỹ khi cho rằng: “sự khác nhau giữa thơ dài và trường ca, có thể dễ nhận thấy qua kết cấu của tác phẩm. Trường ca đòi hỏi một kết cấu chặt chẽ, hợp lý, các chương đoạn có thể không theo qui luật thời gian, không gian, có thể kết cấu theo tuyến sự kiện hoặc tuyến nhân vật... trường ca khác hẳn một bài thơ dài ở tính chặt chẽ của kết cấu” [58, tr.178].
Vũ Tuấn Anh, trong bài “Thơ chống Mỹ, cứu nước trong tiến trình thơ hiện đại” [1], cũng đã trình bày những luận điểm sau:
+ Thơ ca chống Mỹ có cốt cách và tầm vóc của một nền thơ lớn, trước hết là do tính quần chúng sâu rộng… Một nền thơ trữ tình - sử thi, giàu tính chính luận và chất trí tuệ.
+ Thời đại lịch sử đã khai sinh một mô hình thơ ca mới, một kiểu nhà thơ mới, một cái Tôi trữ tình công dân, một cái Ta dân tộc.
+ Nền thơ chống Mỹ làm phong phú rất nhiều khả năng biểu hiện của thơ ca: từ việc sử dụng linh hoạt các thể thơ cho đến cấu trúc thơ, ngôn ngữ thơ.
Những vấn đề được tác giả nêu ra mặc dầu còn mang tính khái quát về thơ chống Mỹ nói chung; nhưng lại là những vấn đề rất đáng quan tâm, sát hợp với nội dung nghiên cứu để giúp người viết phân tích, tổng hợp các vấn đề từ thể loại trường ca hiện đại viết về thời chống Mỹ nói riêng.
Chúng tôi cũng sử dụng các luận văn, luận án sau đây trong quá trình nghiên cứu: + Luận văn Thạc sĩ “Đặc điểm trường ca viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ” (2002) của Nguyễn Thị Liên Tâm.
+ Luận văn Thạc sĩ “Đặc điểm trường ca Thu Bồn” (2005) của Nguyễn Xuân Cổn. Ngoài ra, chúng tôi có tham khảo thêm Luận án Tiến sĩ của Mai Bá Ấn (10/2008) viết về Nguyễn Khoa Điềm, Thu Bồn và Thanh Thảo.