trình của Hưởng Triều, trường caBác của Lê Đạt... cũng đều có những vần thơ khắc họa hình ảnh Bác. Trong luận án này, trước tiên, chúng tôi lựa chọn hai trường ca hoàn toàn viết về Bác để nghiên cứu và so sánh. Đó là Theo chân Bác (trước 1975) của Tố Hữu và Đi trong sen ngát bóng xanh (sau 1975) của Phạm Thái Quỳnh.
Tố Hữu, cây đại thụ trong rừng thơ cách mạng đã hoàn thành trường ca đặc biệt Theo chân Bác sau khi Bác mất hơn một năm. Với những chi tiết đặc sắc; những từ ngữ mượt mà, giản dị... nhà thơ đã dựng lại lịch sử vĩ đại của một con người vĩ đại. Nhiều trích đoạn có giá trị được đưa vào giảng dạy ở các bậc học; được diễn ngâm, đọc minh họa cho phim ảnh v.v… Tố Hữu đã lấy cơ sở tự sự làm giá đỡ chắc chắn cho trường ca và lấy cảm xúc trữ tình làm máu thịt. Sự kiện lịch sử và cảm xúc đã bổ sung cho nhau nên Lê Đình Kỵ đã cho rằng “Để nói lên tấm lòng bao la của Bác, nhà thơ Tố Hữu thường lồng vào những hình ảnh nước non, trời đất, hoa lá gây tác động qua lại giữa người và cảnh, có sức gợi lớn” [41, tr.269].
Theo chân Bác là những thước phim sống động, giàu giá trị.Trong trường ca, công đức của Bác được Tố Hữu so sánh thật chính xác: “Chỉ biết quên mình cho hết thảy/ Như dòng sông chảy nặng phù sa”. Tình cảm của Người đối với miền Nam thật da diết, cháy bỏng. Người là hiện thân cho lẽ sống tự nhiên của đất trời Việt Nam: “Bác sống như trời đất của ta/ Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa/ Tự do cho mỗi đời nô lệ/ Sữa để em thơ, lụa tặng già”. Lê Đình Kỵ cũng đã từng nói: “Bác đã đi qua thời đại và thế gian này với chiếc áo sờn, đôi dép cao su. Bác giành tất cả những vui buồn, lo nghĩ, tình cảm của mình cho dân cho nước, giáo dục mỗi người chúng ta biết lo cái chung: lo trước vui sau thiên hạ” [41, tr.271].
Khi lãnh đạo toàn dân kháng chiến, Bác mang tư thế của người lính tiên phong. Hình tượng Bác vừa vĩ đại lại vừa bình dị. Sự vĩ đại của Bác được hun đúc từ tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Chính quan niệm con người bình thường
đã gợi ý cho nhà thơ tìm đến các chi tiết bình thường của người lãnh tụ: “Mong manh áo vải hồn muôn trượng”. Không chỉ giản đơn là dùng phương tiện so sánh, nhân hóa, ẩn dụ… để cho thơ chắp cánh bay lên mà chính là nhờ quan niệm nghệ thuật về con người soi chiếu nên nhà thơ mới có những vần thơ sâu nặng ân tình, mới có cách diễn đạt đa dạng phong phú về sức sống vĩnh cửu của Bác. Tuy nhiên, trường ca cũng có một vài hạn chế như: một số câu thơ không hay, ngôn từ còn dễ dãi, ý thơ dàn trải… nặng tưởng tượng, một số hình ảnh trùng lặp (ngẩng đầu cao, vỗ cánh bay…) như các nhà phê bình đã nhận xét.
Trường ca Đi trong sen ngát bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh - có cùng một chủ đề nhưng bút pháp và ngôn từ có độ đậm nhạt khác nhau. Nhà thơ thật bản lĩnh khi chọn đề tài viết về lãnh tụ theo cách thức dựng lại những sự kiện về lịch sử và cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, một công việc mà Tố Hữu đã thực hiện và rất thành công với trường ca Theo chân Bác.
Phạm Thái Quỳnh (Nam Định) đã từng tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sau này, khi sống trong hoà bình, tác giả vẫn nhớ về một thời hoa lửa đã cùng đồng đội trải qua. Là người lính, lại là người cầm bút; nhà thơ cũng đã từng trăn trở, ấp ủ nỗi mong ước sẽ viết về Bác. Cuộc thi “Bác Hồ của chúng ta” (2005) do tuần báo Văn Nghệ tổ chức nhân kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với hình thức thể hiện là thơ và trường ca đã giúp nhà thơ thực hiện được ước mơ và đạt giải chính thức (cùng với Hà Trọng Đạm, tác giả trường ca Địa chỉ đời Người). Đây cũng là một cuộc thi tôn vinh Bác Hồ, và cũng là hình thức thể hiện sự trở lại của trường ca sau một thời gian dài gần như vắng bóng.
Trong lời nói đầu trưòng ca Đi trong sen ngát bóng xanh, Phạm Thái Quỳnh đã tâm sự: “Từ lâu, tôi đã có ý định viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh... Cuộc thi (viết về Bác Hồ của chúng ta) của báo Văn nghệ đã động viên tôi cầm bút. Thế nhưng… tôi biết rằng “Thiên chương đâu dễ tạc bóng Người”... viết về một vĩ nhân mà hào quang đã quá rực rỡ, thêm nữa, do đặc trưng thể loại
Có thể bạn quan tâm!
- Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam - Nguyễn Thị Liên Tâm - 9
- Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam - Nguyễn Thị Liên Tâm - 10
- Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam - Nguyễn Thị Liên Tâm - 11
- Sức Khái Quát Hiện Thực Về Địa Danh Và Con Người
- Sức Khái Quát Về Người Thực, Việc Thực
- Sức Khái Quát Về Sự Hy Sinh Của Nhân Dân
Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.
(trường ca), tôi đã đứng trước một khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua…
“Đi trong sen ngát bóng xanh” là tấm lòng với chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại”.
Nghiên cứu Đi trong sen ngát bóng xanh, ta có thể nhận thấy ngay rằng, Phạm Thái Quỳnh đã đọc rất nhiều tư liệu lịch sử viết về thân thế, gia cảnh và hành trình cách mạng gian khổ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặc dù không trực tiếp viết về thời chống Mỹ, nhưng không gian nghệ thuật hầu như nằm trong thời chống Mỹ và hoạt động của nhân vật trữ tình (Bác Hồ) chủ yếu thuộc thời chống Mỹ. Vì thế chúng tôi đã xếp trường ca này vào danh mục trường ca về thời chống Mỹ, như là một sự kế tiếp khắc họa thêm ở những sự kiện lịch sử mà Tố Hữu đã kể lại trong Theo chân Bác.
Đi trong sen ngát bóng xanh dài trên 4.000 câu, có số lượng gần gấp 5 lần Theo chân Bác, và nhiều nhất nhì so với các trường ca hiện đại qua hai thời kỳ chống Pháp, Mỹ. Trường ca có tất cả 11 chương (Đỉnh núi chạm trời, Những hoàng hôn bên bờ biển cả, Vượt trùng dương tìm một ngọn đèn, Người mang án tử hình, Tôi nói đồng bào có nghe rõ không, Bình minh bão táp, Không có gì quý hơn độc lập tự do…).
Trong trường ca này, vẫn có những câu thơ giàu cảm xúc trữ tình nhưng chưa đạt đến độ chín ngọt ngào, mượt mà, tinh tế như Theo chân Bác. Giọng thơ Phạm Thái Quỳnh tỉnh hơn, thiên về tự sự hơn; và có ưu thế là giúp người đọc hiểu sâu hơn về gia thế, hoàn cảnh lịch sử nước nhà, tâm tình của Bác.
Nếu mở đầu Theo chân Bác, Tố Hữu đưa ta về những ngày đau thương vĩnh biệt Bác, thì Phạm Thái Quỳnh lại bắt đầu chương I bằng sự suy ngẫm về cuộc tử sinh của một đời người và đã băn khoăn, trăn trở, mơ ước:
“Núi cao dù đứng phương nào đó/ May lắm tỏ tường một phía thôi/ Bảy chín xuân thu sao toả sáng/ Thiên chương chưa dễ tạc vóc Người”.
Ở chương X có những câu thơ mượt mà giọng điệu ân tình: “Nào ngờ sáng Mồng Hai tháng Chín/ Nhẹ gót tiên Người nhập vĩnh hằng” nhưng lặp ý của Tố Hữu: “Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay” (Theo chân Bác). Nhiều
đoạn trong chương này viết khá thành công, vừa kể lịch sử vừa tâm tình ca ngợi, tuy nhiên, cũng không khỏi có những hạt cát li ti gợn lên trong tay người cầm lụa: “Biển Đông dầu cạn, Trường Sơn rụi/ Cũng trường chinh giải phóng cõi bờ” chưa đạt tới sự thanh thoát, mượt mà. Phạm Thái Quỳnh đã chọn tên chương cuối làm tên chung cho bản trường ca tâm huyết.
Có thể nói, Đi trong sen ngát bóng xanh của Phạm Thái Quỳnh xứng đáng được Hội đồng nghệ thuật của tuần báo Văn Nghệ tặng giải chính thức trong cuộc thi về đề tài “Bác Hồ của chúng ta”. Trường ca có yếu tố kể lặp như Theo chân Bác nhưng mang sắc thái mới; có dung lượng khá dài, chất tự sự nhiều hơn, có những câu thơ khá hay, tính hiện thực và trữ tình đan xen, hòa quyện khiến người đọc dễ dàng tiếp nhận; thưởng thức. Nhưng do hoàn cảnh sáng tác, do chất tự sự lấn át và tất nhiên, cũng còn tùy thuộc vào tài luyện chữ nên trường ca không thể tránh khỏi điểm nhược là chất mượt mà, gợi xúc cảm chưa đạt độ trữ tình và có giá trị như Theo chân Bác. Hai trường ca này có thể được ví như pho truyện về Bác bằng thơ.
Một trường ca khác cũng hoàn toàn viết về Bác nhưng không dựng lại toàn bộ hành trình cách mạng của Người. Đó là trường ca Bác của Lê Đạt. Nhà thơ hoàn thành bản trường ca này vào tháng 5/1970 kịp ngày giỗ đầu của Bác. Nhưng đến 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của danh nhân văn hóa Hồ Chí Minh, tác phẩm mới được in ấn và phổ biến rộng rãi. Khương Hữu Dụng đã ghi lời bạt: “Tác giả rất mực yêu kính Bác đồng thời rất tự hào ở cương vị người lao động thơ. Và chính thái độ ấy càng tôn hình ảnh Bác thêm thuyết phục, nhân bản, dân chủ, vẽ nên bức chân dung hiện thực người lãnh đạo hiện đại..”. Trong trường ca có ghi lại nhiều đoạn công điện viếng Bác của các nước anh em, của nhà nước ta. Riêng nhà thơ, đã cố công vận dụng lối từ ghép phức nghĩa (giản dị - kỳ, hiền - hiện đại...); lối chuyển cảnh đột ngột, bài thơ “như một toà tháp nhiều tầng, nhiều hành lang”; không phải dễ dàng được số đông
độc giả tiếp nhận nhưng đáng quý là ở tấm lòng kính yêu lãnh tụ của nhà thơ. Đây là một đoạn thơ khá lạ từ tứ thơ đến cách dùng từ, ngắt câu, sang dòng:
“Ông già Giao thừa/ râu phơ phất/ ngưỡng xuân/ Tóc nở/ trắng lào rào hạt/ xanh/ trở dạ/ Lúp búp mai/ măng/ chớp lạ...”.
Trong trưởng ca Hành trình của Hưởng Triều, hình ảnh của Bác kính yêu gắn liền với bước đường kháng chiến và mơ ước đến ngày thống nhất: “Bác sẽ chỉ huy hát kết đoàn/ Kề vai cả nước đại thành công/ Một tờ di chúc sen toả ngát/ Bác sẽ vào đây, Bác vẫn còn”.
Với Nguyễn Khoa Điềm, những hình ảnh đơn giản, cụ thể nhất đều có sự hiện diện của Bác: “Bởi vì Người là đất nước tôi/ Mỗi sợi tóc trắng của Người đều ghi những ngày gian khổ nhất/ Của đất nước của năm dài đánh giặc”. Hình ảnh của Người được bằng những chi tiết thật bình thường nhưng thật vĩ đại: “Trái cà Người ăn/ Cũng là trái cà nuôi người anh hùng đầu tiên Thánh Gióng/ Cây gậy Người cầm/ Cũng có thể tìm trong trăm ngàn cây gậy của Trường Sơn” (Mặt đường khát vọng).
Trong Vách đá Hồ Chí Minh, Thu Bồn lại mô tả hình ảnh chàng trai Dang Nghi A chọn vách núi vươn cao ngất, chỗ đất gặp trời để kính cẩn đục đá khắc dòng chữ bằng vôi trắng “Hồ Chí Minh muôn năm”, thể hiện hình tượng Bác vĩ đại luôn ở trong tâm hồn của nhân dân.
Có thể nói, các trường ca đã xây dựng hình tượng cao đẹp về Bác. Trong trường ca Nguyễn Văn Trỗi, từ những chi tiết có thực về những phút cuối cùng của anh Trỗi trước khi bị tử hình, Lê Anh Xuân đã để cho nhân vật chính bày tỏ lòng kính yêu Bác qua những vần thơ da diết: “Khi Anh gọi Bác ba lần/ Lòng Anh như thấy được gần Bác thêm... /Việt Nam là Bác, Bác là Việt Nam”.
Riêng Thanh Thảo lại chọn chi tiết “đôi tay bắt nhịp” bài hát “Kết đoàn” và “giọng nói” đầm ấm đã trở thành hình ảnh quen thuộc để bày tỏ nỗi niềm: “Chúng con thèm nghe Bác nói một câu/ Giữa bến Nhà Rồng mênh mông trời
đất/.. thèm nghe thơ, thèm đôi tay bắt nhịp/ Chúng tôi nghe nóng bỏng đời Người” (Những người đi tới biển).
Ngày nay, dân tộc ta một lòng ghi sâu ơn đức trời biển của Bác. Cả thế giới và loài người yêu chuộng hoà bình đều ca ngợi về Người. Victo Hara, người nghệ sĩ Chi lê cũng đã gửi lên nền nhạc của mình lời hát:
“Bác Hồ là bài ca của chúng ta/ Là chim bồ câu trắng
Là chìa khóa mở ra chiến thắng cho quyền sống hoà bình”.
Những điều trong Điếu văn tưởng niệm khi Bác ra đi vào cõi vĩnh hằng quả vẫn chưa nói hết được công ơn trời biển của vị lãnh tụ thiên tài kiệt xuất: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông ta, đất nước ta đã sinh ra Người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”. Cuộc đời của Bác luôn là đề tài vô tận cho mọi nguồn cảm hứng sáng tạo thơ ca, nhạc họa, sân khấu, điện ảnh, nghiên cứu văn chương. Trường ca về thời chống Mỹ đã góp phần vào nhiệm vụ khắc họa, tôn vinh hình ảnh của Người. Với một số trích đoạn nổi tiếng trong các bản trường ca, đặc biệt là Theo chân Bác và Đi trong sen ngát bóng xanh trọn vẹn viết về Người là một minh chứng khẳng định đề tài lãnh tụ xuất hiện trong trường ca về thời chống Mỹ có tần suất khá cao.
2.1.4 Đề tài tình yêu đôi lứa
Trường ca thời chống Mỹ đa phần viết về đề tài chiến tranh và người lính. Tuy nhiên, bên cạnh mảng đề tài lớn này, các nhà thơ vẫn dành “đất” cho đề tài tình yêu đôi lứa.
Tình yêu đôi lứa luôn là đề tài muôn thưở mà bất kỳ thời gian nào, xã hội nào; từ đông chí tây, từ kim chí cổ đều xuất hiện trong văn học; tuy nhiên, mức độ thể hiện phải phù hợp với hoàn cảnh xã hội mà nó xuất hiện. Thời chống Pháp - nếu các nhà thơ đề cập nhiều đến vấn đề tình yêu trong tác phẩm của mình sẽ là “lạc điệu” với kháng chiến, với dân tộc; bởi trong hoàn cảnh ấy, phải đặt tình yêu tổ quốc lên trên hết. Vì thế, trường ca thời chống Pháp hiếm thấy
đề cập đến đề tài tình yêu. Nhưng trường ca thời chống Mỹ thì đã cống hiến cho đời những tác phẩm mô tả hiện thực ác liệt của chiến tranh pha lẫn vị trữ tình của tình yêu đôi lứa khá sắc nét, nhất là ở trường ca ra đời sau 1975 một vài năm.
Mỗi một nhà thơ tài hoa có thể xem như là một khách đa tình như Maxim Goocki đã nói:“Thiên tài là ái tình”. Phạm Huy Thông nổi danh một thời với trường ca Tiếng địch sông Ô cũng đã nói: “hầu hết thơ tình yêu đều là trường ca tình yêu” [2, tr.104]. Tiếng địch sông Ô có nội dung phỏng tích Trương Lương dùng tiếng địch phản chiến mê hồn làm nát tan hàng ngũ Hạng Võ. Với Huy Thông, tiếng địch ấy lại chính là “tiếng gọi của tình yêu trong trái tim người anh hùng si tình” Hạng Võ với nàng Ngu Cơ.
Thời chống Mỹ, đề tài tình yêu đôi lứa được đề cập sâu sắc hơn. Đó là tình yêu thánh thiện của Lãm và Nguyệt trong Mảnh trăng cuối rừng (Nguyễn Minh Châu). Là tình yêu đầy chất triết lý trong Mặt đường khát vọng (Nguyễn Khoa Điềm). Là tình yêu sâu sắc thủy chung suốt hai mươi năm trời của đôi vợ chồng người cán bộ địch hậu trong Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh).
Trước 1975 và sau 1975, thơ Việt Nam vẫn tiếp tục đề tài chiến tranh, “độ lùi không gian và thời gian đã bổ sung sắc thái bi tráng, trầm tĩnh, đẩy thể loại trường ca trữ tình đến độ viên mãn khó trở lại” [3, tr.78]. Thơ trữ tình Việt Nam sau 1975 viết về thời chống Mỹ đã trải qua sự điều chỉnh trong cách cảm thụ, nhìn nhận, lý giải thế giới, con người và ngôn ngữ thể hiện. Các nhà thơ tên tuổi sáng tác trường ca đều mô tả hình ảnh đất nước, nhân dân như thực tế đã diễn ra. Chất trữ tình sâu lắng và chất triết lý trí tuệ ngày càng được các nhà thơ chú ý khai thác, đặc biệt là những dòng thơ diễn tả tình yêu thời chiến.
Những biểu hiện về đề tải tình yêu đôi lứa trong trường ca về thời chống Mỹ có thể tạm xếp vào các dạng thức như sau:
2.1.4.4 Tình yêu và sự chia ly
Tình yêu trong thời chống Mỹ không chỉ là nỗi nhớ nhung sâu đậm, kín đáo... mà còn đầy cay đắng và có thể là cả sự chia ly. Nỗi niềm của nhân vật trữ tình như của chính nhà thơ. Ta có thể khảo sát những vần thơ da diết viết về tình yêu chia ly ở thời chống Mỹ: “Xa nhau suốt tháng năm dài/ Hãy nghe người lính nói lời tình yêu…/ Đôi ta cách một dòng sông/ Cỏ cây bên ấy ngóng trông bên này… ” (Trường ca Sư đoàn- Nguyễn Đức Mậu).
Đất nước bị chia cắt, tình yêu đôi lứa cũng bị cắt chia: “Vĩ tuyến Mười Bảy ở đâu mà con đò không qua được/ Trai gái yêu nhau trầu cau không qua được/ Vĩ tuyến Mười bảy/ Nơi đất trời sùi sụt chuyện mưa ngâu” (Trường ca Sư đoàn).
Quả thật, nhân danh người lính ra trận, các nhà thơ hiểu từng chân tơ sơi tóc nỗi lòng của người ở lại để bày tỏ, sẻ chia “những hy sinh, mất mát, chịu đựng của cả dân tộc… trong cuộc hành trình đạt tới chiến thắng” [2, tr,109]. Những vần thơ giàu sức chinh phục người đọc vì diễn tả đúng tâm trạng của biết bao người vợ trên đất nước này khi phải chịu nỗi mất mát không gì bù đắp được trong tình cảm vợ chồng.
Có nhà thơ lại thổ lộ giúp người vợ hậu phương qua những câu thơ ngập tràn cảm xúc, vừa đầy ắp hiện thực, vừa mang tính trữ tình thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người của nhà thơ: “Những đêm trở trời trái gió/ tay nọ ấp tay kia/ súng thon thót ngoài đồn dân vệ/ Một mình một mâm cơm/ ngồi bên nào cũng lệch/ chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền” (Đường tới thành phố - Hữu Thỉnh).
Hình tượng người vợ cô đơn lặng lẽ chờ chồng dằng dặc tháng năm đã được nhà thơ xây dựng rất thành công. Ở một khổ thơ khác, nhà thơ đã chọn cặp từ “thiếu” và “thừa” hết sức trái ngược nhưng thật logic để miêu tả một hình tượng vô cùng điển hình. Người vợ không đủ đôi đủ cặp, như thuyền kia thiếu bến, như trầu nọ thiếu cau. Chị đã ôm lòng chờ đợi chồng ngày đoạn