thoát khỏi ách ngoại xâm, nhằm thiết lập một cộng đồng dân tộc mới với nội dung giai cấp mới theo lí tưởng cách mạng và cảm hứng chủ đạo là chủ nghĩa yêu nước. Tính sử thi là một đặc trưng nổi bật của nền văn học hiện đại Việt Nam, Trường ca hiện đại mang đậm tính sử thi như là một đặc điểm tiêu biểu nhất nên có nhiều biểu hiện độc đáo. Theo Lại Nguyên Ân: “Nếu sử thi truyền thống của nhiều dân tộc ở nhiều thời đại thường hướng sự mô tả vào quá khứ lịch sử dựa vào truyền thống và dã sử, thì nền văn học sử thi Việt Nam hiện đại lại hướng sự mô tả vào hiện tại đương đại của dân tộc trong diện mạo cụ thể lịch sử của nó” [6, tr.22].
Các nhà thơ sáng tác trường ca sử thi hiện đại đặc biệt quan tâm đến việc chọn lựa đề tài: chiến tranh và người lính trong thời chống Mỹ. Hệ thống nhân vật là những con người giàu lý tưởng, tính cực tham gia vào các sự kiện lịch sử của đời sống dân tộc. Họ không phải là những nhân vật có địa vị quan trọng như trong trường ca cổ điển mà có thể là những con người hết sức bình thường. Hiện thực mà trường ca về thời chống Mỹ khai thác là hiện thực cách mạng của dân tộc. Sự xung đột thể hiện ở các sự kiện mang tính sử thi vì liên quan đến vận mệnh dân tộc, lợi ích dân tộc; không phải là những xung đột dân sự bên trong nội bộ cộng đồng như đa số các trường ca cổ điển. Hệ thống sự kiện là những sự kiện chính trị trung tâm của lịch sử dân tộc đương thời.
Tuy vậy, chúng ta cũng nhận thấy rằng trong các trường ca viết về thời chống Mỹ; những cảnh đời tư, những hình ảnh con người, những quan niệm về thế giới cuộc sống… đều liên quan chặt chẽ đến việc quan sát, nghiên cứu, chiêm nghiệm vấn đề chiến tranh mà nhà thơ muốn thể hiện bằng kinh nghiệm và vốn sống của họ. Không thể tách rời đề tài đời tư, thế sự với đề tài lịch sử. Muốn có tác phẩm, họ phải lăn xả vào hiện thực của cuộc chiến chống Mỹ, sống với nó hoặc phải bắt nó thức dậy trong cảm xúc sâu sắc, nghiên cứu nó một cách tỉ mỉ, chính xác để phát hiện được bản chất của hiện thực. Như vậy, cảm hứng sử thi là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với các nhà thơ viết
về thời chống Mỹ. Nếu nhà thơ không mặc áo lính, họ chấp nhận dấn thân để sáng tác. Nhưng, nếu là nhà thơ mặc áo lính, họ chấp nhận dấn thân đến hai lần: vì bổn phận của người nghệ sĩ và vì bổn phận của người lính. Tuy nhiên, trong mỗi tác giả viết trường ca về thời chống Mỹ vẫn có những nét riêng khi thể hiện yếu tố cảm hứng sử thi do tiếp nhận ảnh hưởng của vùng miền, tính chất và giai đoạn của cuộc chiến, tuỳ thuộc vào tâm trạng cá nhân. Muốn sáng tác trường ca về thời chống Mỹ, dù ở thời chiến tranh hay ở thời hậu chiến, nhà thơ tất yếu phải có cảm hứng sử thi; cảm xúc chủ đạo phải là phản ánh hiện thực về cuộc chiến tranh thời chống Mỹ.
Hồng Diệu trong "Thêm vài suy nghĩ" đã nhận xét: “khi bàn việc viết về chiến tranh... có lẽ chúng ta khó mà bỏ qua hàng loạt trường ca mà chủ đề của nó là chiến trường, và những người lính, những người đã làm nên chiến trận" [12, tr.130]. Quả đúng như vậy; chúng ta, những người nặng nợ với thơ ca; khó lòng mà bỏ qua những bản trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ đã một thời làm rung động biết bao trái tim người thưởng thức. Và đến nay, mỗi khi đọc lại, lòng ta vẫn chưa thôi xao xuyến. Từ đó, ta có thể khẳng định: cảm hứng sử thi của các nhà thơ ở thời chống Mỹ viết về thời đại ấy thật mạnh mẽ, vượt qua các nhà thơ sống ở thời hậu chiến.
Qua khảo sát trường ca hiện đại, ta thấy rằng trường ca viết về đề tài chiến tranh thời chống Mỹ chiếm ưu thế. Các trường ca đơn thuần viết về Mẹ, về tình yêu đôi lứa, về ký ức tuổi thơ, về lịch sử thời phong kiến hầu như chiếm tỷ lệ rất ít (đã dẫn ở phần 1.1). Chính điều này lại càng khẳng định đề tài chiến tranh chiếm vị trí chủ đạo. Chiến tranh chính là cái nền để con người thời chống Mỹ hiển hiện, ở đó, con người quyết vượt lên sự tàn phá hủy diệt để tồn tại, phát triển với vẻ đẹp sáng ngời. Đặc biệt là hình ảnh người chiến sĩ đã thu hút rất nhiều bút lực của các nhà thơ người lính. Thơ ca chống Mỹ cứu nước nói chung và trường ca nói riêng đều khắc họa người lính bằng những nét vẽ rất bình thường nhưng thật điển hình. Đây cũng là tứ thơ chung của cả
thời đại vừa rất sâu sắc vừa rất phong phú, vì hầu như mỗi nhà thơ đều có sự trải nghiệm riêng ở các binh chủng khác nhau (như bộ binh, thiết giáp, đặc công, địch vận, du kích, giao liên, thông tin liên lạc…) và đã phán ánh chân thật vào trong trường ca của họ.
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Gắn Kết Giữa Yếu Tố Cá Nhân Và Cộng Đồng
- Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam - Nguyễn Thị Liên Tâm - 9
- Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam - Nguyễn Thị Liên Tâm - 10
- Trường ca về thời chống Mỹ trong văn học hiện đại Việt Nam - Nguyễn Thị Liên Tâm - 12
- Sức Khái Quát Hiện Thực Về Địa Danh Và Con Người
- Sức Khái Quát Về Người Thực, Việc Thực
Xem toàn bộ 223 trang tài liệu này.
Giang Nam đã trải qua những ngày sống và chiến đấu dọc chiều dài miền Nam Tổ quốc. Hình ảnh người lính đặc công trong trường ca của ông cũng có những phẩm chất chung như người lính trong thơ Thanh Thảo, Hữu Thỉnh: yêu nước thương dân, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc riêng tư để hiến trọn cuộc đời cho lý tưởng. Đó là anh hùng Huỳnh Việt Thanh trong Người anh hùng Đồng Tháp, được miêu tả rất bình dị từ ngôn ngữ cho đến tính cách.
Nhà thơ - người lính ngày ấy cũng đã cùng đoàn quân chống Mỹ băng qua những con đường sỏi đá khu Năm, những đêm Trường Sơn gió rừng buốt lạnh, những ngày Trường Sơn đông nắng tây mưa, những đói rét ốm đau bệnh tật: “Những con đường sỏi đá khu Năm/ Đêm Trường Sơn vàng từng khuôn mặt/ Bom tọa độ cày sâu Tam giác sắt/ Một củ sắn lùi, cả tiểu đội chia nhau” (Sông Dinh mùa trăng khuyết - Giang Nam).
Trong trường ca Những người đi tới biển (dài khoảng 1250 câu, gồm 3 chương: Chiếc áo ngắn, Nguồn sông, Địa hình) Thanh Thảo là hiện thân của người chiến sĩ bộ binh già dặn trong cách nghĩ, sẵn sàng chịu đựng mọi gian khổ, hiểm nguy vì sự sống còn của đất nước. Nhà thơ đã xây dựng thành công hình tượng người lính trong tác phẩm. Họ không có quyền lựa chọn nơi và thời điểm để được sinh ra nhưng lại được quyền chọn mảnh đất mà mình sẽ cống hiến tuổi trẻ và máu xương - nếu muốn được làm người đúng nghĩa khi Tổ quốc cần: “Người ta không thể chọn để được sinh ra/ Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy/... Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ (Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?”.
Người chiến sĩ ấy, lúc bấy giờ có tuổi đời còn quá trẻ nhưng những câu thơ mang tính chính luận triết lý chững chạc. Lời thơ của anh như một lời tuyên thệ của cả một đội quân điệp trùng ra trận. Đó là những con người dũng cảm, nhân hậu, thủy chung… giữa bao nhiêu sự hy sinh mất mát đến cháy lòng cháy dạ, họ vẫn lạc quan để sống và hy vọng về một ngày mai chiến thắng. Ở phần Vĩ thanh mang tên Tới biển, Thanh Thảo đã phản ánh hành trình “đi tới biển” của dân tộc. Cũng như trong nhiều trường ca khác, hình ảnh người lính hiện lên rất đậm nét. Nhiều mảnh đời, nhiều cảnh đời riêng đã hoà nhập vào nhau làm nên dáng dấp những con người đầy khí thế, sung sức và trẻ trung. Họ đi qua lốc xoáy, vượt suối băng rừng, đi tìm giặc mà đánh: “Chúng con đi từng trận gió rừng/ Cả thế hệ xoay trần đánh giặc”.
Là người đại diện phát ngôn lý tưởng của thời đại, lại là người tham gia cuộc chiến nên Thanh Thảo có cách sống, cách nói của người trong cuộc thật đến ngọn nguồn. Tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống thể hiện ở “ba mươi phút nữa hành quân, được cười vang, nằm lăn trên cát ấm, được ngụp hết mình lòng sông đẫm; được bè bạn với đá, với trời xanh, với rừng; được nín thở hồi hộp cùng chú bói cá, được làm con trai không phải giữ gìn” (Những người đi tới biển).
Vẫn là khắc họa hình ảnh ngưới lính thời chống Mỹ, nhưng Hữu Thỉnh lại có cách thể hiện khác với Thanh Thảo. Cách viết của Thanh Thảo trẻ trung, sôi nổi, giàu chất suy tưởng, chính luận… Riêng Hữu Thỉnh, trong giọng điệu thường mang âm hưởng ca dao dân ca mặn mà, trầm tĩnh, dạt dào chất trữ tình sâu lắng. Đặc biệt, Hữu Thỉnh dành nhiều tình yêu cho người lính binh chủng thiết giáp. Bởi những năm tháng chống Mỹ, trước khi là nhà thơ, anh đã là một người lính sát cánh cùng binh chủng thiết giáp. Vì vậy “hình tượng người lính và hiện thực lớn lao sôi động của những năm tháng chiến tranh ác liệt đã trở thành nguồn cảm hứng chủ đạo cho các sáng tác của anh” [95,76]. Hữu Thỉnh có điều kiện để sống, hiểu và nhận rõ những điều sâu kín, những vui buồn khát
khao của trái tim người lính bởi anh đã bước vào cuộc chiến với trách nhiệm và nghĩa vụ của người lính.
Thơ và trường ca của thế hệ chống Mỹ cứu nước chính là tiếng nói sống động tự tin của những người trong cuộc. Nhà thơ - chiến sĩ là người khắc họa chân dung đồng đội mình rõ nét nhất, thực nhất, tình cảm nhất. Nhận xét về cách xây dựng nhân vật trong Đường tới thành phố, Mai Hương đã viết “Người chiến sĩ là hình ảnh trung tâm và xuyên suốt trong trường ca. Sự từng trải của người viết đã giúp anh dựng chân dung người chiến sĩ chân thực và sống. Những trang viết của anh do đó có sức chinh phục...” [35, tr.109]. Hình ảnh các anh chiến sĩ băng dọc Trường Sơn, vượt qua Bình Định, Nha Trang, đến Xuân Lộc… được Hữu Thỉnh xây dựng rất chân thực và sống động. Đó là những người lính giàu tình yêu thương đồng đội, xẻ chia từng cơn ấm lạnh và sẵn sàng chết cho đất nước sinh tồn. Đến với họ, thơ tìm ra tính chất: “sống làm người chiến thắng”.
Đường tới thành phố có tất cả năm chương, tổng cộng hơn 1500 câu. Chương I mô tả không khí chung của chiến trường. Chương II viết về người Tư lệnh. Chương III là điệp khúc về những cây cầu. Chương IV viết về thời điểm bản lề giữa chiến tranh và hòa bình. Chương V có tên Tự do, chủ yếu phản ánh tâm trạng thực của người chiến sĩ trong không khí chiến thắng. Chương này có kết cấu rời rạc hơn các chương khác. Nhưng cả năm chương đều tập trung xây dựng hình tượng trung tâm là người chiến sĩ bằng một chất thơ trầm tĩnh, sâu lắng, trữ tình, có sức rung động cao.
Từ những cảm xúc mãnh liệt về ngày 30/4 toàn thắng, Nguyễn Đức Mậu cũng đã suy nghĩ về người lính, chiến tranh và hòa bình. Ở trong điểm giao thời lịch sử ấy, anh cho rằng cả hai cách nhau trong từng gang tấc: “Hòa bình và chiến tranh, cách nhau bằng nấc đạn”. Các anh trực diện với kẻ thù và “Chỉ có những người lính trực tiếp cầm súng mới ý thức đầy đủ cái mong manh của nấc đạn” mà thôi [10, tr.31]...
Đế quốc Mỹ đã dùng hàng ngàn tấn bom và chất độc hóa học để biến Củ Chi thành một vùng đất trắng. Nhưng sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của cuộc chiến tranh chính nghĩa đã khiến Mỹ phải thất bại. Điều đó đã được phản ánh trong Mặt trời trong lòng đất. Sự hiểu biết khá tường tận về con người và mảnh đất Củ Chi cùng cảm xúc mãnh liệt đã giúp Trần Mạnh Hảo chọn những hình tượng thơ không lẫn với ai. Người lính thời chống Mỹ trong trường ca chính là hình tượng người du kích Củ Chi bình thường nhưng anh hùng, lặng lẽ góp phần làm nên lịch sử, không cần lưu danh thiên cổ. Đó là một tư tưởng lớn thể hiện trong văn học quá khứ.
Bằng sự rung động tinh tế của con tim, trong Đất nước hình tia chớp, nhà thơ đã cảm nhận tâm hồn cao đẹp của những người chiến sĩ trẻ. Họ sẵn sàng gửi lại những ước mơ làm nhà văn, nhà bác học vào ngày hòa bình để hôm nay có thể sống trọn vẹn cho sự tồn vong của dân tộc: “Con gởi lại sau lưng/ Những mơ ước nhà văn, bác học/ Để nhận lấy cánh rừng/ Để nhận lấy dãy Trường Sơn dựng dốc”.
Họ ra đi, nối tiếp hình ảnh những anh bộ đội cụ Hồ “Ruộng nương anh gửi bạn thân cày” (Đồng chí - Chính Hữu), của những chàng trai “chiến trường đi không tiếc ngày xanh” (Tây Tiến - Quang Dũng), và họ sẵn sàng ra đi bỏ lại “Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy” (Đất nước - Nguyễn Đình Thi).
Họ cũng chính là Lan, là Hoa, là Hà, là Pi Thị Bảy..., các cô gái vận tải đã từng vào sinh ra tử của đoàn H50 (Sông núi trên vai - Anh Ngọc). Trường ca gồm năm chương, chương I mang tên “Tạo hình” nói về những cô gái miền Cực Nam vắt mình qua dòng thác chiến tranh như chiếc cầu bắc qua dòng sông rộng, gùi hàng như gùi trái núi trên vai. Chương II “Gọi tên”. Chương III “Đi đến những bài ca” nói về dốc Ba Cô với ba trăm cô gái gùi hàng lên đỉnh dốc. là bài ca lợp nhà bằng lá trung quân thường có ở Trung ương cục R, là chuyện về các cô gái của Bác Ái, khu Lê, Tam Giác đi thồ xe, là bài ca đêm vượt lộ...
Chương IV có tên “Sợi chỉ” tập trung viết về bài ca những người đào huyệt và bài ca ru người nằm xuống. Chương cuối là “Tiếng gọi bên kia đường”.
Trong trường ca Lửa mùa hong áo, nhà thơ Lê Thị Mây - cũng là nữ thanh niên xung phong ngày nào, đã trần tình với mười hai cô gái của tiểu đội thanh niên xung phong chống lầy, phá bom, mở những cung đường huyết mạch cho xe vận chuyển: “Xin các chị cho em nén giữ trong lòng/ Làn hương sả bắt đầu từ ký ức/ Mười sáu tuổi, mười bảy tuổi ai không náo nức/ Mong được rời nách áo mẹ ra đi”.
Các nhà thơ thời chống Mỹ đã xây dựng hình ảnh người lính đúng như hiện thực vốn có: yêu nước thương dân, biết hy sinh tình cảm riêng tư. kiên cường đánh giặc. Trường ca vốn không chỉ nói về người lính mà còn qua họ nói về cả một thế hệ tự ý thức sâu sắc về mình, về lịch sử và nhân dân. Đó là sự tự nhận thức đạt đến độ sâu trong thơ chống Mỹ.
Hình ảnh con người kháng chiến; con người lạc quan, chung thủy, tin tưởng vào tương lai chiến thắng đã được xây dựng bằng những chi tiết hiện thực sống động và giàu chất thơ. Đó là những con người bằng xương bằng thịt như chúng ta nhưng trong thời đại lịch sử ấy; tư tưởng, trí óc của họ đã đặt trên tầm cao của mọi suy nghĩ và hành động bình thường. Không có quan niệm mới về con người thì không thể có được hình tượng những con người bình dị và cao cả ấy trong thơ. Bởi thế, số lượng trường ca thời chống Mỹ viết về chiến tranh và người lính - chiếm tỷ lệ rất lớn.
Văn học luôn bắt nguồn từ đời sống thực tế. Nếu xa rời thưc tế thì sẽ mất đi tính hiện thực. Hiện thực khách quan là đối tượng được phản ánh và từ đó mà hình thành cảm xúc, tâm trạng điển hình trong thơ. Gớt đã nói rằng “Lý thuyết thì màu xám, còn cây đời mãi mãi xanh tươi”. Hiện thực khách quan là đề tài vô tận đòi hỏi phải được thể hiện bằng nhiều loại hình nghệ thuật như sân khấu, phim ảnh, thơ ca nhạc họa.... Trong đó, đề tài về chiến tranh và người lính đã được thơ ca nói chung và trường ca về thời chống Mỹ nói riêng mô tả rất chân
thực và cao đẹp. Đó là người lính binh chủng thiết giáp, lính bộ binh, lính đặc công, thanh niên xung phong, du kích, cô gái vận tái, giao liên… Đặc biệt là người chiến sĩ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người công dân số một.
2.1.3 Đề tài lãnh tụ
Đề tài và quan niệm nghệ thuật về đề tài luôn luôn phát triển, vận động làm cho cách nhìn của những nhà sáng tác và những nhà phê bình văn học luôn có một góc độ mới hơn. Mỗi nhà thơ, trên nền hiện thực sôi động của cuộc đấu tranh chống Mỹ đã phán ánh, lý giải, kiến tạo con người bằng bút pháp riêng của mình, cắt nghĩa về con người theo một tư duy nghệ thuật ngày một nâng cao và gắn với thế giới quan Mac-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trần Đình Sử đã nói: “Thật khó nói tới sự phát triển của tư duy nghệ thuật mà thiếu sự mở rộng, đào sâu các giới hạn trong quan niệm nghệ thuật về con người” [83, tr.98]. Hình tượng con người trong trường ca chống Mỹ đã được nâng lên tầm cao mới với sự hòa hợp giữa: con người - đất nước - lịch sử - thời đại.
Trong trường ca về thời chống Mỹ, đề tài chiến tranh và người lính đã bao hàm cả đề tài lãnh tụ, bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người lính tiên phong của quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Người viết tách riêng đề tài lãnh tụ để nghiên cứu vì hầu như bất kỳ một nhà thơ lớn nào khi sáng tác trường ca cũng vậy, đều có những vần thơ tâm đắc viết về Bác.
Viễn Phương, năm 1976 được ra miền Bắc thăm Bác. Với một niềm thành kính và xúc động khôn cùng, ông đã sáng tác bài thơ Viếng lăng Bác, được sự hỗ trợ của âm nhạc, ý thơ lại càng đi sâu vào tâm hồn mỗi người dân Việt Nam. Chế Lan Viên trí tuệ, suy tưởng và chiêm nghiệm với bài Người đi tìm hình của nước. Giang Nam, năm 1976, khi đến trường Dục Thanh ở Phan Thiết đã xúc động dạt dào và sáng tác bài thơ Thăm trường xưa Bác dạy, có thời gian được đưa vào chương trình văn học địa phương của tỉnh Bình Thuận. Tố Hữu có trường ca Theo chân Bác. Các trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm, Bài ca chim Chơrao, Vách đá Hồ Chí Minh của Thu Bồn, Hành