nhận được từ EITC. Các nhà chính sách thường ca ngợi tác dụng của EITC, tuy nhiên, xét về mặt quản lý thu thuế thì nó lại khá tốn kém và không hiệu quả.
2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TRIỂN KHAI HIỆU QUẢ VIỆC ÁP DỤNG LUẬT THUẾ TNCN TẠI VIỆT NAM.
Từ những khó khăn trong quá trình triển khai Luật Thuế TNCN đã nêu ở trên, căn cứ vào thực tế triển khai Luật Thuế TNCN ở nước ta cũng như kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, một số giải pháp nhằm triển khai áp dụng có hiệu quả Luật Thuế TNCN vào thực tiễn được kiến nghị như sau
2.1. Tăng cường quản lý thu nhập.
Trong giai đoạn hiện nay, khi cơ sở nền tảng cho việc quản lý thu nhập còn chưa đầy đủ thì trong nỗ lực của riêng mình, ngành thuế cần chủ động đề ra những giải pháp để hạn chế thấp nhất những rủi ro, thất thoát có thể xảy ra. Đương nhiên công tác quản lý thuế thuộc về ngành thuế, nhưng để triển khai thành công luật thuế TNCN cũng như để làm tốt công tác quản lý thu nhập, rất cần có sự phối hợp quản lý, trao đổi cung cấp thông tin của các bộ, ngành, cơ quan chi trả thu nhập, sự tham gia giám sát của cơ quan pháp luật và đông đảo quần chúng nhân dân.
Về nguyên tắc, để kiểm soát được thu nhập dân cư, trước hết cơ quan thuế sẽ căn cứ vào những thông tin, dữ liệu được cung cấp bởi các cơ quan chi trả thu nhập. Trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ quan thuế của các đơn vị chi trả thu nhập đã được Luật Thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn quy định rất rõ, nên ngành thuế hoàn toàn có thể yên tâm về các nguồn thông tin này.
Thứ hai, là ngành thuế sẽ căn cứ vào thông tin từ tổ chức, đơn vị có quan hệ kinh tế với các cá nhân để khai thác các nguồn thu nhập.
Thứ ba là, cơ quan thuế sẽ dựa vào hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm chính quyền và hội đồng tư vấn thuế phường, xã để có được những thông tin về thu nhập của cá nhân, nhất là các cá nhân kinh doanh.
Cũng để kiểm soát được thu nhập thì một trong những giải pháp mà ngành thuế cần làm đó chính là nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, giải thích, động viên, hướng dẫn nhằm khuyến khích, khơi dậy tinh thần tự nguyện, tự giác của mọi công dân trong việc thực hiện tốt nghĩa vụ khai, nộp thuế TNCN.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Vấn Đề Vướng Mắc Khi Thực Hiện Quá Trình Giãn Nộp Thuế Tncn.
- Khó Khăn Do Công Tác Chuẩn Bị Triển Khai Luật Thuế Tncn Chưa Thật Sự Dầy Đủ.
- Những Ưu Điểm Và Nhược Điểm Của Quá Trình Triển Khai Luật Thuế Tncn Mĩ.
- Hoàn Thiện Hệ Thống Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin.
- Triển khai áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam - 15
- Triển khai áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Hơn thế nữa, cần thúc đẩy sự phát triển của ngành tài chính ngân hàng, mở rộng hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt (trả lương qua thẻ ATM, qua tài khoản...) nhưng phải đảm bảo sự thuận tiện, nhanh chóng và an toàn cho khách hàng. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về sự thuận tiện của việc thanh toán không dùng tiền mặt trong các trường học, cơ quan, xí nghiệp... thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hay tuyên truyển trực tiếp... Bên cạnh đó, cần tăng cường hợp tác, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về thuế TNCN; tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật của các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế và các tổ chức chính phủ, tư nhân và cá nhân nước ngoài.
Với đối tượng là cá nhân kinh doanh thì các biện pháp nhằm quản lý thu nhập của đối tượng này rất quan trọng.
Biện pháp tối ưu hàng đầu của ngành thuế là tận dụng triệt để và phát huy những kinh nghiệm tốt mà quá trình quản lý hộ kinh doanh thời gian qua đã đúc kết; đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của cơ quan thuế nói chung và cán bộ ở đội thuế phường xã trực tiếp quản lý hộ kinh doanh nói riêng. Để đảm bảo quản lý sát doanh số, chi phí và thu nhập của cá nhân kinh doanh, ngành thuế đã chỉ đạo cơ quan thuế các cấp phối hợp chặt chẽ hơn với cơ quan quản nhà nước ở cấp TW và địa phương, các đơn vị kinh tế có quan hệ với các hộ kinh doanh, đặc biệt là phối hợp chặt chẽ hơn nữa với hội đồng tư vấn thuế phường xã bởi đây là tổ chức gần dân nhất và sát dân nhất nên sẽ
hỗ trợ tích cực cho ngành thuế trong việc quản lý đối tượng này. Thông qua hệ thống dịch vụ hỗ trợ, cơ quan thuế sẽ cung cấp đầy đủ thông tin, kịp thời hướng dẫn các thủ tục cũng như giải pháp nhanh gọn những khó khăn vướng mắc, tạo những điều kiện thuận lợi nhất để người nộp thuế TNCN thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, cơ quan sẽ tăng cường kiểm tra, kiểm soát, nhằm phát hiện kịp thời những trường hợp cố tình vi phạm về khai thuế TNCN để xử lý nghiêm theo luật định.
Ngoài các giải pháp về mặt chế tài, cần có giải pháp để kích thích, khơi dậy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân. Kinh nghiệm của một số nước đã giải quyết thành công vấn đề này cho thấy, phải giành nhiều ưu đãi để khuyến khích các cá nhân minh bạch hóa hoạt động kinh doanh. Thậm chí ở nhiều nước, Chính phủ còn cấp không máy tính tiền cho các cá nhân kinh doanh; nếu cá nhân nào tự trang bị máy tính tiền thì cơ quan thuế sẽ cho phép tính giảm trừ chi phí mua máy theo một tỷ lệ nhất định ngay trên mỗi hóa đơn tính tiền trong suốt 1 đến 2 năm đầu, hoặc có thể áp dụng biện pháp giảm thuế từng phần để tạo điều kiện cho cá nhân thu hồi vốn và khuyến khích họ sử dụng máy tính tiền. Với biện pháp này, cơ quan thuế sẽ có điều kiện kiểm soát được doanh số, từ đó có cơ sở để quản lý thuế công bằng và hợp lý hơn. Đây cũng chính là một gợi ý hữu hiệu mà Việt Nam nên áp dụng.
2.2. Thực hiện nghiêm công tác thanh tra, xử phạt vi phạt thuế.
Đối với những hành vi kê khai không đúng về thu nhập, khai giảm trừ người phụ thuộc, ngành thuế cần kết hợp chặt chẽ với các tổ chức chính trị của đơn vị chi trả thu nhập và hội đồng tư vấn thuế phường xã để nắm chắc thông tin thông tin về người phụ thuộc, trên cơ sở đó kiểm soát trở lại việc kê khai của người nộp thuế. Bên cạnh đó cơ quan thuế cần tăng cường kiểm tra, đối chiếu giữa bản kê khai và hồ sơ chứng minh người phụ thuộc để phát hiện các dấu hiệu khai gian, khai trùng để xử lý.
Về mặt công nghệ, ngay sau khi cá nhân nộp thuế nộp bản khai và hồ sơ chứng minh người phụ thuộc thì toàn bộ dữ liệu này phải được nhập vào hệ thống dữ liệu thông tin quản lý thuế, đồng thời với mỗi người phụ thuộc sẽ được phát một mã nhận diện (ví dụ một loại mã số tương tự mã số thuế). Trên cơ sở đó, bất cứ trường hợp nào khai trùng, mã nhận diện sẽ phát hiện và cho phép loại bỏ. Theo kinh nghiệm của nhiều chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực này thì việc sử dụng mã nhận diện sẽ cho phép loại bỏ gần như hoàn toàn những trường hợp khai trùng về người phụ thuộc, các dữ liệu về TNCN nộp thuế cũng sẽ được các đơn vị chi trả thu nhập khai và được nhập vào dữ liệu quản lý của cơ quan thuế. Cá nhân có thu nhập khai không đúng thu nhập dữ liệu máy tính báo để cơ quan thuế biết.
Trong giai đoạn đầu triển khai Luật Thuế TNCN, cơ quan Thuế nên dùng chủ yếu biện pháp kiểm tra, nhắc nhở để người nộp thuế khai đúng, đầy đủ, nhưng nếu nhắc nhở rồi mà cá nhân vẫn vi phạm thì cơ quan thuế phải áp dụng các hình thức xử lý nghiêm theo quy định tại Luật Quản lý thuế tức là vi phạm nhẹ thì phạt cảnh cáo, hành chính, vi phạm nặng có thể bị truy tố xử lý hình sự.
Theo quy định mới của Bộ Tài chính, các cá nhân trốn thuế, nợ đọng kéo dài ngoài việc bị cưỡng chế thu nhập, khấu trừ lương có thể sẽ phải kê biên tài sản cho cơ quan Nhà nước. Ví dụ: Đồ dùng sinh hoạt thông thường như quần áo, giường tủ, bàn ghế.. sẽ không bị kê biên. Tuy nhiên, đồ dùng sinh hoạt giá trị cao như tủ lạnh, TV, máy điều hòa, máy giặt, máy vi tính, đồ trang sức vàng bạc đá quý sẽ bị kê biên. Riêng nhẫn cưới, tuy là vàng quý nhưng sẽ không bị kê biên.
Cơ quan thuế sẽ yêu cầu cơ quan, công ty nơi cá nhân nợ thuế làm việc tiến hành khấu trừ thu nhập của cá nhân đó. Lương, thưởng, trợ cấp hàng tháng có thể bị khấu trừ từ 10% đến 30%. Các khoản thu nhập khác của người trốn thuế có thể bị khấu trừ đến 50%.
Trước khi thực hiện các biện pháp cưỡng chế như thu hồi mã số thuế, đình chỉ sử dụng hóa đơn, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của người nợ thuế, cơ quan chức năng nên công bố danh tính trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.3. Cải cách các thủ tục hành chính.
Ngành thuế phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính thuế trong đó chú trọng cải cách hành chính thuế TNCN, hướng đến các mục tiêu đơn giản và giảm thiểu các thủ tục hành chính cho các cá nhân và cơ quan chi trả thu nhập. Cũng cần nói rằng thậm chí, việc áp dụng một cách khoa học về chính sách thuế TNCN có thể liên quan đến mức độ thành công của công cuộc cải cách hành chính này.
2.3.1. Cải thiện lương của viên chức hành chính công thông qua chính sách thuế TNCN hợp lý.
Nếu như xã hội ta tạo mọi điều kiện một cách công bằng cho mỗi công dân phát triển nghề nghiệp và có được thu nhập thông qua công việc cá nhân thì sự bình đẳng này cũng phải thể hiện ở chỗ ai làm ít, làm nhiều thì đều phải đóng góp cho quốc gia tương ứng với thu nhập của người đó. Nói một cách khác: Mọi công dân đều phải được đối xử bình đẳng với thuế thu nhập.
Để có thể làm tốt cải cách hành chính, việc đầu tiên mà các nước phát triển đã làm là tăng lương cho công chức để họ đảm bảo được đời sống cho bản thân rồi sau đó là hoàn thành tốt chức năng của mình với đất nước. Việt Nam ta chắc cũng không thể bỏ qua chính sách này. Vậy đâu là liên quan giữa khoản thất thu thuế do chính sách không thu thuế từ những người có thu nhập từ mức trung bình trở lên trong xã hội và số tiền cần thiết để tăng lương cho công chức? Giả thiết có 2 triệu công chức cần được tăng lương: Nếu bổ đầu 1 tỷ USD (tiền thuế thất thoát hàng năm) cho 2 triệu người thì mỗi viên chức hành chính công
sẽ có thu nhập tăng thêm ít nhất 650.000đ/tháng so với mức lương của họ hiện nay.
2.3.2. Thay đổi tư tưởng, nhận thức của người làm công tác thuế cũng như người nộp thuế.
Đương nhiên là giảm thiểu cơ quan hành chính, giảm thiểu các công đoạn ra quyết định là một công đoạn quan trọng của cải cách hành chính, song đó là Tinh giảm hành chính chứ chưa phải là cải cách hành chính thực sự. Cái “hồn” của công cuộc cải cách hành là thay đổi tư tưởng từ người dân đến người làm hành chính công là phải làm sao để chuyển Dịch vụ hành chính công từ Xin/cho thành Nghĩa vụ/Trách nhiệm một cách nhanh chóng và hiệu quả nhất cho mọi công dân.
Mối quan hệ nhân quả này có thể được hiểu thế này: Để có cải cách hành chính thành công, phải có chế độ lương thích hợp cho những người trong biên chế, chính phần thuế thu nhập của mọi đối tượng có thu nhập (ít nhất là tạm trừ ra lương tối thiểu) sẽ đủ để tiếp sức cho đội ngũ công chức hành chính công. Và khi người làm hành chính công hiểu rằng, lương của họ là từ đóng góp của mọi lao động mà ra thì sự tôn trọng của họ trước thân dân sẽ phải tăng lên. Về phía người dân, dù chỉ đóng thuế TNCN ở mức tối thiểu, họ cũng cảm thấy “tự tin” hơn trước những nhân viên hành chính công.
Chẳng phải tự nhiên mà trên thế giới này, các nước phát triển như Mỹ, Anh hay Nhật luôn có được sự tôn trọng ở mặt bằng quốc tế. Bỏ đi những con ngáo ộp về vũ khí thì trong con mắt thế giới, họ là những người đóng thuế đặc biệt cao cho Liên Hiệp Quốc. Có thể suy ra rằng, trên bình diện quốc tế, dù là còn thu nhập thấp thì ta cũng nên “đóng thuế”, và việc đóng thuế sẽ làm cho ta bình đẳng hơn trong con mắt nhân loại và tự ta, chúng ta sẽ thấy mình “đàng hoàng hơn”, tự tin hơn trong thời WTO.
2.3.3. Chống tham nhũng trong bộ máy hành chính.
Trên tinh thần gắn liền TNCN và thuế với việc phòng chống tham nhũng, chính phủ Singapore đã quyết định tăng lương gấp đôi cho cán bộ công chức cấp cao nhà nước. Tiêu chí của họ là nếu không tăng xứng đáng thì chính quyền Singapore có thể trở thành một chính phủ có sự len lỏi của tham nhũng như các quốc gia khác (Báo Lao động 7/4/07). Trước khi nói về vấn đề này, xin kể thêm một câu chuyện về mua sắm đồ cá nhân tại Mỹ. Một anh bạn người Mỹ gốc Việt về Việt Nam làm ăn đầu tư từ hơn 15 năm nay. Cũng vì phần nhiều công việc của anh đang triển khai ở Việt Nam nên việc nộp thuế TNCN của anh này ở Mỹ chỉ ở mức bình bình. Thấy vợ chồng anh chỉ sử dụng xe ôtô cũ, có người thắc mắc tại sao anh chị đã có tuổi rồi, không mua lấy chiếc xe mới tinh kiểu như BMW hay Mercedes để đi cho an toàn. Câu trả lời của anh thật sự đã gây ra nhiều suy nghĩ: ở xứ Mỹ này, khi đi đăng kí xe ôtô người ta sẽ “xăm xoi” xem anh đóng thuế thu nhập bao nhiêu? Nếu trong mã số thuế cá nhân, mức anh đóng chỉ đủ để mua xe Kia Hàn Quốc thì việc anh tậu một chiếc Mercedes sẽ ngay lập tức chứng tỏ rằng anh đang có “vấn đề” về thuế TNCN - ít nhất, anh đã có những khoản thu nhập không chính đáng.
Như vậy, việc kiểm soát thuế TNCN đối với mọi đối tượng có thu nhập sẽ là một công cụ đặc biệt hiệu quả để chống tham nhũng và Việt Nam cũng nên áp dụng một cách thích hợp cho mình. Ví như có một đội ngũ thanh tra các cán bộ ngành thuế, rồi có các đội kiểm tra chéo nhau giữa các đơn vị trong cùng ngành hoặc trái ngành...
2.4. Chuẩn bị thật tốt các điều kiện cơ sở vật chất cho triển khai Luật thuế TNCN.
2.4.1. Về công tác tuyên truyền, hỗ trợ.
Tuyên truyền, giáo dục tư tưởng cho các đối tượng nộp thuế: Không phải mọi công dân Việt Nam đều hiểu được Thuế TNCN đóng vai trò quan trọng như thế nào đối với ngân sách quốc gia; đơn giản vì những người cả đời
không phải đóng lấy một xu nào cho công quĩ thì chắc chắn họ không thể có cái cảm giác thuế liên quan đến họ như thế nào, cả về quyền lợi cũng như trách nhiệm đối với thuế thu nhập.
Cơ quan thuế cần đẩy mạnh và phát triển các hình thức dịch vụ để phục vụ, hỗ trợ người nộp thuế. Những năm qua, ngành thuế đã triển khai cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông”, Tổng cục thuế cũng đã có hệ thống tổ chức chuyên trả lời giải đáp chính sách thuế và sẽ đầu tư xây dựng các trung tâm điện thoại giải đáp tự động về thuế TNCN; và cần thiết lập các đường dây nóng, bố trí thường trực giải đáp vướng mắc của người nộp thuế tại tất cả các cơ quan thuế trong cả nước, đồng thời ngành thuế cũng cần phát động phong trào xây dựng nếp văn hóa mới cho cán bộ thuế với mục tiêu phục vụ nhanh nhất, tận tình nhất, hiệu quả nhất cho người nộp thuế.
Xây dựng và triển khai hình thức trao đổi thông tin trực tuyến và thư điện tử giữa đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế thông qua hệ thống mạng ngành thuế.
Nghiên cứu hệ thống hóa các hình thức tuyên truyền hỗ trợ được áp dụng trên thế giới: thường xuyên cập nhật, nghiên cứu các hình thức tuyên truyền hỗ trợ từ đó đưa ra phương thức thích hợp nhất cho bối cảnh Việt Nam hiện nay. Xây dựng và triển khai chương trình, nội dung giáo dục về thuế TNCN bắt buộc ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp trên phạm vi toàn quốc. Từ đó in ấn tài liệu, giáo trình chung về thuế TNCN cho các đối tượng này, và mở rộng dần ra là đối tượng cán bộ công chức, cá nhân kinh doanh...
Cần chuẩn hóa các nội dung tuyên truyển hỗ trợ và thống nhất triển khai trên toàn quốc. Trước hết cần rà soát toàn bộ nội dung của hệ thống tài liệu tuyên truyền, bổ trợ; cập nhật các văn bản pháp luật trên website ngành thuế... Có một yêu cầu đặt ra là tài liệu cũng như nội dung các chương trình