Bảng 2 – Biểu thuế suất lũy tiến từng phần 5 cấp
Số thu nhập phải nộp thuế/ năm (RMB) | Thuế suất (%) | |
1 | Phần không vượt quá 5.000 RMB | 5 |
2 | Phần vượt quá 5.000 đến 10.000 RMB | 10 |
3 | Phần vượt quá 10.000 đến 30.000 RMB | 20 |
4 | Phần vượt quá 30.000 đến 50.000 RMB | 30 |
5 | Phần vượt quá 50.000 RMB | 35 |
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Giải Pháp Nhằm Triển Khai Hiệu Quả Việc Áp Dụng Luật Thuế Tncn Tại Việt Nam.
- Hoàn Thiện Hệ Thống Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin.
- Triển khai áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
(Nguồn: Luật thuế TNCN Trung Quốc năm 1999)
(3) Thu nhập chịu thuế đối với cá nhân hành nghề độc lập:
Thu nhập chịu thuế bao gồm các khoản thu nhập từ việc thực hiện các dịch vụ hành nghề độc lập tại Trung Quốc, các khoản tiền thưởng và các khoản thu nhập đặc biệt khác theo quy định của Bộ Tài Chính.
Thu nhập chịu thuế đối với cá nhân hành nghề độc lập là tổng số thu nhập trừ đi chi phí cần thiết để tạo ra thu nhập chịu thuế. Theo quy định hiện hành mỗi tháng có thể trừ đi chi phí khoán 800 RMB (9.600 RMB/năm). Sau khi trừ đi chi phí khoán năm là 9.600 RMB phần vượt căn cứ vào bảng thuế TNCN số 3 để tính thu nhập chịu thuế.
(4) Thu nhập về thù lao dịch vụ (ví dụ thù lao quản lý cho người điều hành);
(5) Thu nhập về nhuận bút; (6) Thu nhập về phí sử dụng quyền đặc biệt;
(7) Thu nhập cho thuê tài sản:
Nếu mỗi lần thu nhập không quá 4.000 RMB thì được trừ chi phí 800 RMBnếu vượt quá 4.000 RMB thì được trừ 20% chi phí, lấy số dư còn lại là thu nhập chịu thuế với thuế suất 20%.
(8) Thu nhập chịu thuế về chuyển nhượng tài sản:
Sau khi trừ đi các khoản chi phí liên quan đến thu nhập nhận được từ việc bán hoặc chuyển nhượng bất động sản và bất động sản tại Trung Quốc (nguyên giá tài sản, các chi phí hợp lý khác… ) thì khoản thu nhập đó sẽ chịu thuế với thuế suất 20%.
Thu nhập từ việc chuyển nhượng bất động sản cũng là đối tượng chịu thuế thu nhập bất động sản theo biểu thuế suất lũy tiến từng phần như sau:
Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (Thu nhập/chi phí) | Thuế suất (%) |
Dưới 50% | 30 |
Từ 50% đến dưới 100% | 40 |
Từ 100% đến dưới 200% | 50 |
Trên 200% | 60 |
(9) Thu nhập chịu thuế về lãi tiền gửi, lãi tiền cho vay, cổ tức, hoa hồng;
(10) Thu nhập ngẫu nhiên; (11) Các thu nhập khác mà ngành tài chính xác định là thu nhập chịu thuế: là toàn bộ thu nhập mỗi lần nhận được của người nộp thuế và phải chịu thuế suất 20%.
Lợi tức, cổ tức được chia và các thu nhập từ đầu tư khác từ các nguồn tại Trung Quốc là đối tượng chịu thuế với thuế suất 20%, không được khấu trừ bất cứ khoản nào. Tuy nhiên, đối với các khoản tiền lãi cổ phần và lãi chia thêm từ việc đầu tư cổ phần loại B (cổ phần phát hành để bán cho các nhà đầu tư nước ngoài) và cổ phần loại H (cổ phần của các doanh nghiệp Trung Quốc được niêm yết tại thị trường ngoại hối) của các doanh nghiệp Trung Quốc được miễn thuế.
Khi xác định thu nhập chịu thuế theo Luật thuế TNCN Trung Quốc, không có sự phân biệt giữa đối tượng nộp thuế là người đã lập gia đình với người chưa lập gia đình và không có giảm thuế hoặc có khoản khấu trừ nào đối với người ăn theo.
2.3. Thu nhập không chịu thuế.
Tiền thưởng do chính quyền nhân dân cấp tỉnh, các ngành thuộc Quốc viện vụ, đơn vị quân đội cấp quân đoàn và các tổ chức ngoại giao, các tổ chức quốc tế cấp thưởng cho về các mặt khoa học, giáo dục, kỹ thuật, văn hóa, y tế, thể dục, bảo vệ môi trường…
Lợi tức trái phiếu do Bộ Tài chính cho phép phát hành và trái phiếu tín dụng do Quốc vụ viện cho phép phát hành.
Tiền phụ cấp, trợ cấp được chính quyền phát cho theo quy định của Quốc vụ viện và tiền phụ cấp, trợ cấp được Quốc vụ viện quy định miễn thuế.
Tiền phúc lợi, tiền dưỡng lão, tiền cứu tế.
Tiền bồi thường bảo hiểm.
Tiền chuyển ngành, tiền phục viên của quân nhân.
Tiền được Nhà nước quy định thống nhất phát cho cán bộ viên chức về ổn định chỗ ở, thôi việc, lương hưu.
Thu nhập được quy định miễn thuế trong các công ước quốc tế, các hiệp định ký kết mà chính phủ Trung Quốc tham gia.
Thu nhập của các đại diện ngoại giao, nhân viên lãnh sự và các nhân viên khác thuộc các đại sứ quán, lãnh sự quán tại Trung Quốc, được miễn thuế theo Luật pháp hữu quan quy định.
Thu nhập được ngành tài chính cho phép miễn thuế.
Lợi tức tiền gửi tiết kiệm giáo dục (chỉ áp dụng đối với các cá nhân mở tài khoản tại Ngân hàng chỉ định, tiền gửi dùng vào việc chuyên dùng cho giáo dục).
Tiền thưởng hoặc hiện vật được thưởng cho những người dũng cảm vì nghĩa do hội nghĩa dũng hoặc tổ chức tương tự tặng thưởng, các tổ chức này được chính quyền nhân dân cấp xã, thị trấn trở lên, hoặc được ngành chủ quản của chính quyền nhân dân cấp huyện cho phép thành lập.
Trợ cấp viện sỹ, viện sỹ thông tấn của Viện hàn lâm khoa học Trung Quốc và Viện công trình Trung Quốc.
Quỹ phát triển nhà ở, phí bảo hiểm y tế cơ bản, phí bảo hiểm dưỡng lão cơ bản, phí bảo hiểm thất nghiệp do các doanh nghiệp và cá nhân căn cứ theo tỷ lệ của Nhà nước hoặc của chính quyền địa phương quy định, trích ra và gửi vào một tổ chức tín dụng được chỉ định, được miễn thu thuế TNCN. Phần nộp vượt quá tỷ lệ quy định phải gộp vào thu nhập tiền công tiền lương của cá nhân trong kỳ đó để tính thuế. Khi cá nhân lĩnh khoản tiền trích gửi nói trên và lợi tức cũng được miễn nộp thuế TNCN.
Công nhân viên chức thay đổi cương vị công tác theo yêu cầu của cải cách, đi làm các ngành dịch vụ dân cư ở phố phường, có thu nhập kinh doanh và thù lao dịch vụ cũng được định kỳ miễn thuế TNCN. Cá nhân do hợp đồng lao động hủy bỏ mà nhận được tiền hỗ trợ kinh tế và chi phí bố trí cuộc sống mang tính chất 1 lần cũng được hưởng sự chiếu cố nhất định về thuế.
Các cá nhân sau khi bán nhà ở của mình trong vòng 1 năm đi mua nhà ở theo giá cả thị trường thì được xem xét toàn bộ hay 1 phần giá trị của nhà ở mới mua lại để miễn thuế TNCN.
Ngoài ra, khi doanh nghiệp cổ phần hóa đem quỹ đầu tư phát triển chuyển sang tăng vốn cổ phần cho cá nhân, thì vốn cổ phần tăng mà cá nhân được nhận không coi là TNCN, không thu thuế TNCN.
2.4. Tạm miễn thuế TNCN
Thu nhập về tiền công, tiền lương của các chuyên gia nước ngoài phù hợp với quy định của Nhà nước (như các nhân viên công tác do Ngân hàng thế giới cử đến Trung Quốc theo hiệp định tín dụng của Ngân hàng này, các nhân viên công tác do Liên Hiệp Quốc trực tiếp cử đến Trung Quốc, các nhân viên công tác do nước viện trợ cử đến Trung Quốc chuyên trách khoản viện trợ không hoàn lại của nước này, một số chuyên
gia đến Trung Quốc làm việc mà tiền lương do phía bên nước ngoài gánh chịu).
Một số thu nhập của cá nhân quốc tịch nước ngoài (bao gồm các khoản thu nhập bằng hình thức không dùng tiền mặt hoặc bằng hình thức thực chi thực thanh, như trợ cấp nhà ở, trợ cấp ăn uống, chi phí di chuyển, chi phí giặt là; trợ cấp đi công tác được nhận theo tiêu chuẩn hợp lý; các chi phí được nhận về thăm thân nhân, chi phí về học ngôn ngữ, chi phí học tập của con cái… đã được cơ quan chủ quản thuế vụ duyệt những phần hợp lý; các khoản nhận được từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như lợi tức, cổ phần, hoa hồng…)
Tiền thưởng cá nhân được nhận về việc khai báo, điều tra hành vi phạm pháp, phạm tội.
Thủ tục phí cá nhân được nhận do làm thủ tục khấu trừ thay, nộp thay tiền thuế theo quy định.
Thu nhập nhận được về chuyển nhượng nhà ở tự dùng để sinh hoạt gia đình của cá nhân có duy nhất và đã sử dụng trên 5 năm.
Tiền thưởng về chuyển hóa thành quả khoa học kỹ thuật của cơ quan nghiên cứu khoa học kỹ thuật, trường cao đẳng, cho cá nhân bằng hình thức quyền lợi cổ đông như cổ phần, tỷ lệ góp vốn…
Thu nhập về tiền lương, tiền công trong thời gian hoãn thôi chức, nghỉ hưu của các chuyên gia, học giả đã đến tuổi thôi chức, nghỉ hưu, nhưng do nhu cầu công tác mà lưu nhiệm, được hưởng trợ cấp đặc biệt của chính quyền.
Thu nhập về chuyển nhượng cổ phiếu, quỹ đầu tư chứng khoán.
Tiền thưởng mỗi lần không vượt quá 10.000 RMB cho cá nhân mua phiếu quyên tặng có thưởng, xổ số mang tính chất phúc lợi xã hội.
Khi doanh nghiệp có chế độ sở hữu tập thể chuyển thành doanh nghiệp theo chế độ hợp tác cổ phần, các tài sản được lượng hóa thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp mà cá nhân công nhân viên chức được nhận bằng hình thức cổ phần.
2.5. Đăng ký và kê khai thuế
Năm tính thuế là năm dương lịch. Một cặp vợ chồng sẽ kê khai tính thuế riêng biệt theo từng người đối với tất cả các loại thu nhập, không kê khai tính thuế chung.
Mọi cá nhân đều phải đăng ký với cơ quan thuế địa phương. Trường hợp cá nhân là những người có các hoạt động thăm dò, khai thác ga và dầu khí ở ngoài biển thì phải đăng ký với cơ quan thuế quản lý về dầu khí ở ngoài biển địa phương.
Các cá nhân là đồi tượng nộp thuế TNCN đều phải đăng ký, kê khai với cơ quan thuế theo tờ khai theo mẫu in sẵn và cung cấp giấy xác nhận của người chủ thuê lao động về số tiền chi trả, kèm theo bản sao những trang trong hộ chiếu có liên quan để xác định rõ thời gian có mặt tại Trung Quốc.
Mặc dù cá nhân nhận thu nhập có trách nhiệm nộp thuế thu nhập nhưng thông thường thuế thu nhập chủ yếu được nộp theo phương pháp khấu trừ tại nguồn. Tất cả các đối tượng nộp thuế, bao gồm cả những đối tượng có thu nhập phát sinh trong nước không thuộc diện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ tại nguồn và những đối tượng nhận được thu nhập từ nước ngoài phải thực hiện kê khai thuế thu nhập hàng tháng và nộp các loại thuế có liên quan cho cơ quan thuế địa phương. Tờ khai thuế phải được nộp cho cơ quan thuế trong vòng 7 ngày sau khi hết tháng.
Các đối tượng nộp thuế có thu nhập từ nước ngoài phải kê khai và nộp thuế trong thời hạn 30 ngày kể từ khi kết thúc năm dương lịch. Số thuế đã nộp ở nước ngoài đối với khoản thu nhập nhận được ở nước ngoài sẽ được khấu trừ vào số thuế phải nộp, số thuế được khấu trừ tối đa bằng số thuế thu nhập tính theo Luật thuế của Trung Quốc tính cho khoản thu nhập nhận được đó.
Các cá nhân nước ngoài trước khi dời khỏi Trung Quốc phải nộp xong mọi khoản thuế trong vòng 7 ngày trước thời điểm xuất phát và hoàn thành tất cả các tài liệu theo thủ tục quy định với cơ quan thuế địa phương.
Việc chậm nộp thuế sẽ phải chịu khoản lãi suất là 0,2%/ngày trên số thuế nộp chậm. Một khoản tiền phạt tới 5 lần số thuế phải nộp nếu người nộp thuế có hành vi trốn thuế hoặc từ chối nộp thuế.
2.6. Những lần sửa đổi bổ sung tiếp theo của Luật Thuế TNCN của Trung Quốc.
Ngày 1/9/2005 Luật thuế TNCN sửa đổi của Trung Quốc chính thức có hiệu lực. Từ nay về sau, người có thu nhập trên 1.500 nhân dân tệ (215 USD) mới phải đóng thuế TNCN, tăng lên so với mức thu nhập phải đóng thuế trước kia là 800 nhân dân tệ. Tỷ lệ đóng thuế cũng sẽ được nâng lên đối với người có thu nhập cao. Theo báo Global Times, những người giàu ở Trung Quốc đóng thuế TNCN nhẹ nhất thế giới. Việc sửa đổi luật thuế có tác dụng cân bằng khoảng cách giàu nghèo của công dân nước này. Nhưng từ trước đó, ngưỡng miễn thuế đã dao động giữa nơi này với nơi khác do mức thu nhập khác nhau ở những nơi khác nhau. Trong thực tế, thành phố Bắc Kinh đã tăng ngưỡng miễn thuế lên 1.200 nhân dân tệ và tỉnh Quảng Đông ngưỡng miễn thuế được nâng lên đến 1.500 nhân dân tệ. Dự thảo sửa đổi cho phép “thả nổi” TNCN trong khoảng 20%.
Ngày 29/06/2007, kỳ họp lần thứ 28 ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc khóa 10 thông qua Luật sửa đổi một số điều của Luật Thuế TNCN, bổ sung nội dung cho phép Quốc vụ viện đình chỉ thu thuế lãi suất tiền gửi tiết kiệm, giảm thu thuế TNCN. Điều này có nghĩa là chính sách thu thuế lãi suất tiền gửi tiết kiệm thực thi 8 năm của Trung Quốc có thể sẽ có thay đổi. Nhằm khuyến khích người dân tăng chi tiêu, mở rộng kích cầu trong nước, từ tháng 11 - 1999, Trung Quốc thực thi thu 20% thuế TNCN đối với lãi suất tiền gửi tiết kiệm, tức là thuế lãi suất. Tính đến cuối năm ngoái, Trung Quốc đã thu
thuế lãi suất hơn 210 tỷ nhân dân tệ. Tháng 3 năm 2007, 28 ủy viên Chính Hiệp toàn quốc Trung Quốc liên danh trình đề án “xóa bỏ thuế lãi suất”, đã gây tác động mạnh mẽ. Theo Đề án, thuế lãi suất ảnh hưởng nhiều đến lợi ích của những người có thu nhập vừa và thấp, cộng thêm nhân tố lạm phát, hiện nay lãi suất của tiền gửi tiết kiệm ở ngân hàng thực ra đã là lãi suất âm.
Theo dư luận, mục tiêu của động thái này là nhằm thu hút tiền trong xã hội vào các tài khoản ngân hàng để giảm bớt hiện tượng dồn vốn quá mức vào thị trường chứng khoán, gây ra tình trạng “phồn vinh giả tạo” rất nguy hiểm cho thị trường này, biện pháp được coi là nhằm hạ nhiệt thị trường chứng khoán. Thời gian gần đây, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc đã liên tiếp tăng lãi suất, cả về tiền gửi lẫn tiền cho vay, đồng thời tăng thuế giao dịch chứng khoán lên gấp ba lần.
Tóm lại: Khác với thuế TNCN Canada, thuế TNCN Trung Quốc có những điểm khá tương đồng so với thuế TNCN của Việt Nam. Có thể khi xây dựng luật thuế TNCN cho mình, Việt Nam đã học hỏi khá nhiều từ đất nước láng giêngf Trung Quốc tuy nhiên do điều kiện kinh tế xã hội không hoàn toàn giống nhau nên vẫn có sự khác biệt giữa Luật thuế TNCN của Việt Nam và Trung Quốc.