Quản lý thuế thu nhập cá nhân nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản sau:
- Quản lý thuế thu nhập cá nhân có vai trò quyết định trong việc đảm bảo nguồn thu từ thuế thu nhập cá nhân được tập trung chính xác, kịp thời, thường xuyên, ổn định vào NSNN. Thông qua việc lựa chọn áp dụng các biện pháp quản lý thuế thu nhập cá nhân có hiệu quả, cũng như xây dựng và áp dụng quy trình, thủ tục về thuế thu nhập cá nhân hợp lý, cơ quan thuế đảm bảo thu thuế đúng luật, đầy đủ và kịp thời vào NSNN.
Bên cạnh đó, thuế thu nhập cá nhân tác động trực tiếp đến thu nhập của các cá nhân, có thể làm giảm nỗ lực làm việc và gây nên các phản ứng ngay lập tức từ phía chịu thuế như hành vi trốn thuế … Để tăng cường và ổn định số thu NSNN trong tương lai, công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân cũng cần được chú ý để duy trì và phát triển cơ sở tạo nguồn thu thuế thu nhập các cá nhân.
- Thông qua hoạt động quản lý thuế thu nhập cá nhân góp phần hoàn thiện chính sách, pháp luật cũng như các quy định về quản lý thuế thu nhập cá nhân.
Những điểm bất cập trong chính sách thuế thu nhập cá nhân và khiếm khuyết trong luật thuế thu nhập cá nhân được phát hiện trong quá trình áp dụng luật vào thực tiễn và qua các hoạt động quản lý thuế thu nhập cá nhân. Trên cơ sở đó cơ quan điều hành thực hiện pháp luật đề xuất bổ sung, sửa đổi luật thuế thu nhập cá nhân cho phù hợp [13].
- Thông qua quản lý thuế thu nhập cá nhân, Nhà nước thực hiện kiểm soát và điều tiết các hoạt động kinh tế của các cá nhân trong xã hội. Theo quy định của pháp luật thuế, người nộp thuế có trách nhiệm phải kê khai thuế. Nội dung kê khai thuế là kê khai các hoạt động kinh tế có liên quan đến việc tính toán nghĩa vụ thuế của người nộp thuế, tức là phải kê khai các hoạt động kinh tế phát sinh, các giao dịch kinh doanh của người nộp thuế. Mặt khác, để quản lý thuế, cơ quan thuế phải tổ chức thu thập, nắm bắt, lưu giữ thông tin về hoạt động sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế; phải tổ chức kiểm tra, thanh tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế. Như vậy, thông qua quản lý thuế, Nhà nước đã thực hiện kiểm soát các hoạt động kinh tế của các cá nhân trong xã hội. Từ việc kiểm soát các hoạt
động kinh tế này, Nhà nước có thể có các chính sách quản lý phù hợp để điều tiết hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế theo định hướng của Nhà nước.
1.1.2.2. Nội dung quản lý thuế thu nhập cá nhân
Với khái niệm về quản lý thuế thu nhập cá nhân như đã nêu trên, nội dung chủ yếu của quản lý thuế thu nhập cá nhân bao gồm: thiết kế chính sách thuế thu nhập cá nhân và thể chế hóa thành pháp luật thuế thu nhập cá nhân; xây dựng tổ chức bộ máy quản lý thuế thu nhập cá nhân và tổ chức thực hiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
a) Thiết kế chính sách thuế và thể chế hóa thành pháp luật thuế thu nhập cá nhân
Có thể bạn quan tâm!
- So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 1
- So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 2
- So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 4
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Pháp Luật Quản Lý Thuế Thu Nhập Cá Nhân
- So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 6
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Chính sách là hệ thống những quan điểm và đường lối để đạt được những mục tiêu nhất định trong quản lý một tổ chức hoặc quản lý Nhà nước. Như vậy, nói đến chính sách là nói đến việc cần làm gì và tại sao phải làm như vậy. “Có thể hiểu, chính sách thuế thu nhập cá nhân là hệ thống những quan điểm, đường lối, phương châm điều tiết thu nhập của các cá nhân trong xã hội thông qua thuế” [13].
Những nội dung cơ bản của chính sách thuế nói chung và chính sách thuế thu nhập cá nhân nói riêng bao gồm: mục tiêu của chính sách thuế, phạm vi tác động của chính sách thuế, thời gian hiệu lực của chính sách, trách nhiệm thực hiện chính sách thuế, phương châm chính sách. Ngoài ra, chính sách thuế có thể bao gồm các nội dung khác như: bối cảnh kinh tế - xã hội, …
Pháp luật là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung. Như vậy, trong khi pháp luật bắt buộc người ta phải làm gì trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định và không được làm gì thì chính sách chỉ hướng người ta cần làm gì để đạt được mục tiêu mong muốn. Do đó, “nhà nước muốn chính sách đi vào cuộc sống thì cần thể chế hóa những chính sách ấy thành pháp luật thuế” [13].
Pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói riêng phải quy định đầy đủ các yếu tố: người nộp thuế, cơ sở thuế, mức thu thuế, ưu đãi thuế, thủ tục thuế và xử lý vi phạm về thuế. Cũng như các quy định pháp luật khác, một mặt, pháp luật thuế phải thể hiện rõ các mục tiêu, quan điểm, đường lối, chính sách thuế; mặt khác, pháp luật thuế phải minh bạch, phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
b) Tổ chức bộ máy quản lý thuế thu nhập cá nhân
Nhà nước xây dựng bộ máy quản lý thuế để quản lý thuế thu nhập cá nhân cũng như các sắc thuế khác. Tùy vào điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của từng nước, bộ máy quản lý thuế cũng được xây dựng một cách tương ứng. Nhìn tổng thể trong phạm vi nền kinh tế quốc dân, cơ quan thuế ở các nước trên thế giới đều được tổ chức thành một hệ thống bao gồm nhiều cấp.
Tại nhiều nước, hệ thống đó không hoàn toàn phù hợp với hệ thống chính quyền Nhà nước và bao gồm: cơ quan thuế trung ương, cơ quan thuế cấp tỉnh, thành phố và cơ quan thuế cấp quận, huyện như Việt Nam, Trung Quốc. Ngoài ra, ở một số quốc gia hệ thống ngành thuế còn được tổ chức theo các dạng khác [13].
Hiện nay trên thế giới có các mô hình tổ chức bộ máy quản lý thuế như sau:
Mô hình tổ chức theo sắc thuế
Các bộ phận trong cơ quan thuế được bố trí theo sắc thuế. Trong mô hình này, ngoài những bộ phận quản lý nội bộ như: tổ chức, nhân sự, tài chính … thì các bộ phận quản lý còn lại được bố trí thành các phòng/đội quản lý theo sắc thuế. Mô hình này có ưu điểm là phát huy sự am hiểu sâu của một cán bộ thuế đối với sắc thuế để quản lý tốt. Nhược điểm cơ bản của mô hình này là khó có sự kết hợp tốt trong quản lý các sắc thuế của cùng một đối tượng.
Mô hình tổ chức theo chức năng
Các bộ phận trong cơ quan thuế được bố trí theo chức năng quản lý. Trong mô hình này, ngoài những bộ phận quản lý nội bộ như: tổ chức, nhân sự, tài chính
… thì các bộ phận quản lý còn lại được bố trí thành các phòng/đội quản lý theo chức năng quản lý của cơ quan thuế như: phòng/đội quản lý kê khai thuế, phòng/đội kế toán thuế, phòng/đội thanh tra thuế, phòng/đội kiểm tra thuế, phòng/đội tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế … Ưu điểm của mô hình này là đảm bảo sự chuyên môn hóa sâu theo chức năng. Mô hình này có hai nhược điểm cơ bản là: Không xác định rõ nhiệm vụ thực hiện dự toán thu và sự đóng góp của các bộ phận chức năng vào kết quả thu thuế; Không phát huy được sự hiểu biết sâu sắc của cán bộ thuế về người nộp thuế.
Mô hình tổ chức theo đối tượng nộp thuế
Các bộ phận trong cơ quan thuế được bố trí theo loại hình đối tượng nộp thuế. Trong mô hình này, ngoài những bộ phận quản lý nội bộ như tổ chức, nhân sự, tài chính … thì các bộ phận quản lý còn lại được bố trí thành các phòng/đội quản lý theo đối tượng nộp thuế. Đối tượng nộp thuế có thể phân nhóm theo thành phần kinh tế như: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, cá nhân … Đối tượng nộp thuế cũng có thể được phân nhóm theo quy mô hoặc theo loại hình doanh nghiệp hoặc theo ngành nghề kinh doanh … Do vậy, cơ quan thuế sẽ có các phòng/đội quản lý doanh nghiệp Nhà nước, phòng/đội quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phòng/đội quản lý cá nhân … Mô hình này có ưu điểm là đảm bảo một bộ phận hoặc một cán bộ thuế am hiểu sâu sắc đối tượng nên có thể quản lý tốt đối tượng đó, đồng thời xác định rõ được đối tượng có trách nhiệm thực hiện dự toán thu thuế. Tuy nhiên, mô hình này có nhược điểm là: Tạo môi trường gần gũi giữa cán bộ thuế với người nộp thuế và không chuyên môn hóa sâu.
Mô hình tổ chức bộ máy hỗn hợp
Mô hình hỗn hợp là mô hình vừa có những yếu tố của mô hình tổ chức theo sắc thuế, vừa có yếu tố của mô hình tổ chức theo đối tượng và theo chức năng. Trong mô hình này có cả các phòng/đội theo chức năng như phòng/đội thanh tra, kiểm tra, phòng/đội quản lý nợ và cưỡng chế thuế; lại vừa có phòng/đội quản lý thu nhập; đồng thời, có thể có cả bộ phận quản lý theo đối tượng, chẳng hạn phòng/đội quản lý doanh nghiệp lớn … Nếu tổ chức tốt thì mô hình này có thể phát huy được những ưu điểm và hạn chế được nhược điểm của các mô hình trên. Tuy nhiên, mô hình này có nhược điểm là sự kết hợp thực hiện nhiệm vụ giữa các bộ phận trong cơ quan thuế khá phức tạp.
c) Thực hiện quản lý thuế thu nhập cá nhân
Với mục tiêu tối thượng là thực hiện pháp luật thuế, nghĩa là phải đảm bảo để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ kê khai nộp thuế cho Nhà nước thì cơ quan thuế cần tác động vào tất cả những yếu tố điều khiển hành vi tuân thủ thuế của
người nộp thuế. Tức là phải làm cho người nộp thuế hiểu nghĩa vụ thuế, hiểu cách tính toán số thuế phải nộp, thấy được hậu quả của việc không tuân thủ, tạo những điều kiện thuận lợi nhất để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ kê khai, nộp thuế cho Nhà nước, kiểm soát sự tuân thủ và cưỡng chế tuân thủ thuế. Để làm được điều này, cần tổ chức thực hiện các chức năng quản lý thuế thu nhập cá nhân.
Tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế thu nhập cá nhân
Chuyển tải thông tin về pháp luật thuế thu nhập cá nhân đến mọi thành viên trong xã hội bằng những phương pháp cụ thể. Hoạt động này là nhiệm vụ của cán bộ thuế, bao gồm các nội dung tuyên truyền từ bản chất của thuế thu nhập cá nhân, lợi ích xã hội từ việc nộp thuế cho đến các biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật thuế thu nhập cá nhân … nhằm tạo điều kiện cho người dân trong việc hiểu và có ý thức chấp hành pháp luật thuế thu nhập cá nhân. Các biện pháp tuyên truyền kịp thời còn giúp người nộp thuế có thể cập nhật thường xuyên thông tin về thuế thu nhập cá nhân khi có những sự sửa đổi, bổ sung về chính sách để có những điều chỉnh cho thích hợp thực hiện nghĩa vụ của mình.
Các hình thức chủ yếu được thực hiện trong công tác tuyên truyền pháp luật thuế nói chung và pháp luật thuế thu nhập cá nhân nói riêng bao gồm: xuất bản các ấn phẩm về thuế thu nhập cá nhân, tuyên truyền qua các phương tiện truyền thông đại chúng, xây dựng các chương trình tăng cường hiểu biết về thuế thuế thu nhập cá nhân …
Hỗ trợ người nộp thuế
Hỗ trợ người nộp thuế là việc hướng dẫn, giải thích, tư vấn cho người nộp thuế hiểu các vấn đề liên quan đến chính sách, chế độ thuế đã được quy định, tạo những điều kiện tốt nhất để người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế của mình. Hoạt động này thường được thực hiện theo nguyện vọng và yêu cầu từ phía người nộp thuế. Khi người nộp thuế có những vướng mắc trong quá trình kê khai, tính thuế, quyết toán thuế hoặc các vấn đề có liên quan khác, họ có thể đề nghị cán bộ thuế tư vấn hoặc đến các trung tâm cung cấp dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế để được giải đáp.
Quản lý thu thuế thu nhập cá nhân
* Quản lý đối tượng nộp thuế
Đây là khâu đặc biệt trong quản lý thuế thu nhập cá nhân. Quản lý nhằm xác định thu nhập của tất cả các chủ thể. Hàng năm, cơ quan thuế phải tiến hành đăng ký đối tượng nộp thuế. Phương thức thủ công và đăng ký qua internet là hai phương thức đăng ký đối tượng nộp thuế thường được áp dụng. Vì đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân ở đây nhiều và không tập trung nên phương thức quản lý bằng mạng vi tính thích hợp với công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân. Theo phương thức này thì cơ quan quản lý thuế cần phải tiến hành cấp mã số thuế cho các đối tượng nộp thuế và cơ quan chi trả thu nhập thống nhất trong phạm vi cả nước. Mỗi người nộp thuế có mã số thuế này. Mọi thông tin cần thiết về đối tượng nộp thuế được nạp vào máy vi tính với một file riêng mà tên file là mã số của đối tượng nộp thuế. Khi cần kiểm tra một đối tượng nộp thuế, cơ quan quản lý chỉ cần mở file theo mã số của đối tượng đó, nhờ đó mà tránh được tình trạng bỏ sót các đối tượng nộp thuế đồng thời cũng đảm bảo sự nhanh gọn cho cơ quan thuế trong công tác quản lý thu thuế.
* Các cách tính thuế và nộp thuế:
Thông qua cơ quan ủy nhiệm thu hay cơ quan chi trả thu nhập tính thuế cho các đối tượng nộp thuế làm việc trong đơn vị mình và có thu nhập do đơn vị mình chi trả. Sau khi tính thuế và khấu trừ thuế của đối tượng nộp thuế, cơ quan chi trả thu nhập sẽ tiến hành khấu trừ phần thuế phải nộp ra khỏi thu nhập trước thuế của đối tượng nộp thuế để đem nộp cho cơ quan thuế. Cơ quan chi trả thu nhập sẽ được hưởng một khoản tiền theo tỉ lệ trên số thuế thu được và nộp cho cơ quan thuế.
Đối tượng nộp thuế sẽ trực tiếp kê khai thu nhập của mình và tự tính mức thuế mình phải nộp. Sau đó, các đối tượng nộp thuế sẽ đến nộp tờ khai cho cơ quan thuế và tiến hành nộp khoản thuế cho cơ quan thuế hay cơ quan có chức năng thu thuế. Cơ quan thuế sẽ có nhiệm vụ ghi lại tất cả các khoản thuế mà các đối tượng nộp thuế phải nộp, để từ đó có thể giám sát và kiểm tra khi cần thiết. Đồng thời đó cũng là cơ sở để đảm bảo sự minh bạch trong công tác thu nộp thuế, cho cả đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế cũng như cơ quan ủy nhiệm thu.
Thanh tra thuế thu nhập cá nhân
“Thanh tra thuế là hoạt động kiểm tra của tổ chức chuyên trách làm công tác kiểm tra của cơ quan thuế đối với đối tượng thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn và xử lý những hành vi trái pháp luật” [13, tr.54].
Thanh tra thuế được thực hiện bởi cơ quan thanh tra chuyên ngành thuế. Đối tượng thanh tra thuế là cá nhân có nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân cho Nhà nước và bao gồm cả các đơn vị thuộc ngành thuế. Mục tiêu thanh tra thuế là phát hiện và xử lý các trường hợp sai phạm nhằm giảm bớt tổn thất cho Nhà nước và đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Đồng thời thông qua đó, cơ quan thuế có thể phát hiện những thiếu sót, bất cập trong văn bản pháp luật thuế và quá trình tổ chức thực hiện, từ đó tìm ra những hướng giải quyết nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế Thu nhập cá nhân. Thanh tra thuế được thực hiện dưới các hình thức và phương pháp khác nhau.
Cưỡng chế thuế thu nhập cá nhân
Đây là hoạt động sử dụng các cách thức, biện pháp để buộc người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ thuế thu nhập cá nhân, thực hiện quyết định hành chính thuế thu nhập cá nhân. Để đảm bảo mục tiêu buộc người nộp thuế tuân thủ quyết định hành chính thuế, công tác cưỡng chế thuế có nội dung cơ bản là thông báo cho người nộp thuế biết trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ thuế và những hậu quả có thể phải chịu nếu không thực hiện nghĩa vụ. Đồng thời, bằng các biện pháp cưỡng chế như khấu trừ một phần tiền lương hoặc thu nhập; trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng chế … để thực hiện nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.
1.2. Pháp luật Quản lý thuế thu nhập cá nhân
1.2.1. Khái niệm pháp luật Quản lý thuế thu nhập cá nhân
Trên thế giới hiện nay, hệ thống pháp luật thuế ở các quốc gia được thiết kế có cấu trúc khác nhau. Có những nước quy định tất cả các sắc thuế trong một Bộ luật chung về thuế, gọi là Bộ luật thuế vụ. Trong Bộ luật này, nhà làm luật vừa quy định về nội dung cụ thể của các sắc thuế trong hệ thống thuế, vừa quy định về trình tự, thủ tục hành thu và cơ chế quản lý thuế và cả xử lý vi phạm, giải quyết các tranh
chấp về thuế. Ngược lại, có những nước lựa chọn giải pháp thiết kế mỗi sắc thuế được ban hành bằng một đạo luật riêng, độc lập với nhau nhưng vẫn đảm bảo tính tương thích với nhau và đồng thời tách bạch các quy định về quản lý thuế bằng một đạo luật riêng với các đạo luật quy định sắc thuế, cách làm này đang là xu hướng chung của nhiều nước. “Giải pháp này được đánh giá là thích hợp hơn với điều kiện hội nhập kinh tế toàn cầu vì nó cho phép nhà làm luật có thể sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh các quy định trong các đạo luật thuế một cách dễ dàng hơn so với việc đưa tất cả các quy định về thuế trong một Bộ luật chung về thuế” [40].
Theo TS. Nguyễn Văn Tuyến:
Xét về cấu trúc tổng quát, hệ thống pháp luật thuế nói chung của các nước đều được cấu thành bởi hai bộ phận chính bao gồm:
- Các quy định về nội dung của các sắc thuế trong hệ thống thuế;
- Các quy định về hình thức tổ chức và đảm bảo thực hiện (quy trình hành thu) hệ thống thuế. Các quy định này thường được quan niệm như là những quy định về hình thức của pháp luật thuế, bởi nó có nhiệm vụ xác định trình tự, thủ tục hành thu thuế và quản lý thuế cũng như xử lý vi phạm và giải quyết các tranh chấp về thuế. Hiểu theo nghĩa rộng nhất, tất cả các quy định liên quan đến hoạt động này đều có thể gói gọn trong một thuật ngữ là “pháp luật quản lý thuế” và tùy thuộc vào quan điểm của từng nước mà chúng có thể được quy định chung trong Bộ luật thuế hay các đạo luật thuế, hoặc được tách bạch riêng rẽ thành một đạo luật về quản lý thuế [40].
Theo TS. Nguyễn Thị Thương Huyền:
“Xét về lý thuyết, pháp luật thuế bao gồm: pháp luật vật chất hay còn gọi là pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục hay còn gọi là pháp luật hình thức. Trong đó pháp luật nội dung ghi nhận, phản ánh chính sách thuế, còn pháp luật thủ tục quy định các vấn đề về quản lý thuế” [15].
Các quan hệ mà pháp luật quản lý thuế điều chỉnh khá đa dạng. Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia quan hệ thì pháp luật quản lý thuế điều chỉnh các nhóm quan hệ sau:
.....