KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam và pháp luật quản lý thuế thu nhập ở một số nước trên thế giới, có thể rút ra các kết luận sau:
1. Luật Quản lý thuế được ban hành đã tạo lập cơ sở pháp lý để đổi mới một cách cơ bản cơ chế quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập cá nhân nói riêng, đã tạo ra một hệ thống pháp luật về quản lý thuế đồng bộ, minh bạch và có tính thống nhất cao. Tăng cường vai trò kiểm tra và giám sát của nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc thực hiện quản lý thuế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho người nộp thuế tuân thủ pháp luật về thuế, tự giác nộp đúng, đủ kịp thời tiền thuế vào NSNN.
2. Tuy nhiên, thực tế thi hành Luật Quản lý thuế đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết đòi hỏi phải đánh giá để có cơ sở cho việc hoàn thiện. Pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế về thủ tục hành chính trong quản lý thuế; về giám sát và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong quản lý thuế; về thực trạng quản lý thuế thu nhập cá nhân từ tiền công, tiền lương; thu nhập từ các khoản thu không thường xuyên.
3. Việc đánh giá những hạn chế của pháp luật quản lý thuế nói chung và pháp luật quản lý thuế thu nhập nói riêng được đặt trong tương quan so sánh với pháp luật thuế thu nhập cá nhân và pháp luật quản lý thuế tại một số quốc gia trên thế giới như Australia, Trung Quốc, Singapore …
Chương 3
ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập cá nhân ở Viêṭ Nam
Như chúng ta đã tìm hiểu ở những phần trên, xét về lý thuyết thì pháp luật thuế bao gồm pháp luật vật chất hay còn gọi là pháp luật nội dung và pháp luật thủ tục hay còn gọi là pháp luật hình thức. Trong đó, pháp luật nội dung ghi nhận, phản ánh chính sách thuế còn pháp luật thủ tục quy định các vấn đề về quản lý thuế [15]. Để hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục thì trước hết những quy định về pháp luật nội dung phải cụ thể, rõ ràng. Do đó, để pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân phát huy được hiệu quả thì pháp luật về thuế thu nhập cá nhân trước hết phải làm tốt vai trò của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh Nghiệm Một Số Nước Về Quản Lý Thuế Thu Nhập Cá Nhân
- Pháp Luật Quản Lý Thuế Ở Bang Taxmania (Australia)
- Pháp Luật Quản Lý Thuế Ở Trung Quốc
- Quy Định Của Pháp Luật Về Quản Lý Thuế Thu Nhập Cá Nhân Từ Tiền Lương, Tiền Công
- So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 15
- So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 16
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Mỗi quốc gia tuỳ theo điều kiện lịch sử kinh tế – xã hội ở những giai đoạn cụ thể mà xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân của mình. Hệ thống thuế đó phản ánh những mục tiêu đặt ra của Nhà nước. Do đó, việc tìm ra những tiêu thức chung đánh giá một hệ thống thuế thu nhập cá nhân tốt hay không là công việc không phải dễ dàng. Song dù sao đi nữa, nếu gạt đi những nét đặc thù của mỗi quốc gia và căn cứ vào những đòi hỏi chung của một nền kinh tế thị trường cũng như những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế thì pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân phải đáp ứng những yêu cầu sau:
Thứ nhất, pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải được quy định phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Pháp luật luôn thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân. Nhà nước với chức năng và nhiệm vụ của mình luôn chú trọng hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế nói chung và pháp luật về thuế thu nhập cá nhân nói riêng. Áp dụng thuế thu nhập cá nhân thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, bảo đảm công bằng xã hội và tạo động lực phát triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ. Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập.
Thứ hai, pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải là công cụ hữu hiệu để Nhà nước tăng thu ngân sách, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Đảng và Nhà nước đã sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỉ trọng các nguồn thu trong nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỉ lệ thu từ thuế trực thu. Ở các quốc gia phát triển, tỉ trọng thuế thu nhập cá nhân là khá cao, trong khi đó tại Việt Nam số thu này là không đáng kể. “So với các sắc thuế gián thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu thì thuế thu nhập cá nhân đảm bảo công bằng tốt hơn, vì vậy, việc tăng nguồn thu từ thuế trực thu là yêu cầu hợp lý và cần thiết” [24].
Thứ ba, pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải là công cụ để điều tiết nền kinh tế xã hội, nhưng phải đảm bảo yêu cầu bình đẳng, công bằng xã hội, đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu, dễ kiểm tra, giám sát.
Khi nghiên cứu, xây dựng chế độ pháp lý thuế thu nhập cá nhân cần phải đảm bảo pháp luật thuế thu nhập cá nhân huy được vai trò tích cực trong việc điều tiết xã hội. Nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế xã hội. Bằng hệ thống pháp luật thuế thu nhập, Nhà nước thể hiện ý chí của mình đối với đường lối phát triển kinh tế một cách gián tiếp, thông qua đó thực hiện công bằng xã hội. Thông qua các quy định của thuế thu nhập cá nhân đối với những khoản thu nhập không thường xuyên về đối tượng nộp thuế, thuế suất, miễn thuế, v.v..
Khi thực hiện chức năng điều tiết của mình, pháp luật thuế thu nhập cá nhân vẫn phải đảm bảo tính công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế. Về lý thuyết, pháp luật càng cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế bao nhiêu thì càng có thể đảm bảo công bằng bấy nhiêu. Tuy nhiên, vấn đề này có tính hai mặt, bên cạnh việc đảm bảo công bằng tốt hơn, việc cá thể hoá nghĩa vụ nộp thuế cũng có thể làm sai lệch bản chất công bằng. Công bằng là một đòi hỏi khách quan của bất kỳ một hệ thống thuế nào trên thế giới. Đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân là một trong những công cụ phân phối mạnh nhất của Nhà nước dùng để phân phối lại thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội. Xét trong một chừng mực nhất định, công bằng trong phân phối thu nhập là một trong những đòn bẩy tạo ra động lực cho sự
phát triển kinh tế bởi sự chênh lệch thái qua về mặt thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội sẽ tạo ra sự kìm hãm đối với sự phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, chế độ thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo việc khấu trừ những chi phí hợp lý tạo ra thu nhập theo từng khoản thu nhập. Khấu trừ những khoản chi phí nào, mức khấu trừ bao nhiêu, phương thức khấu như thế nào là những vấn đề lớn được cân nhắc, tính toán kĩ trên cơ sở những số liệu điều tra cụ thể, chính xác, không nên thiết kế một cách áp đặt hoặc chung chung khó áp dụng. Để đảm bảo việc áp dụng được chính xác và thuận tiện, việc quy định các khoản chi phí được khấu trừ phải hết sức cụ thể, chính xác và minh bạch.
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, dễ thực hiện, dễ kiểm tra giám sát. Các khoản thu nhập của cá nhân thì gồm nhiều loại thu nhập mà mỗi loại lại có sự điều chỉnh khác nhau nên thường phức tạp và khó hiểu. Điều này sẽ làm cho đối tượng nộp thuế khó tự giác chấp hành còn cơ quan thuế thì khó quản lý thu nộp. Đồng thời sự phức tạp, không minh bạch của chế độ thuế thu nhập cá nhân thường xuyên tạo cơ hội trốn và tránh thuế và làm tăng chi phí hành thu và chi phí tuân thủ luật thuế của các đối tượng nộp thuế. Theo đó, để đảm bảo được tính rõ ràng thì các từ ngữ được sử dụng phải dễ hiểu và mọi người có cách hiểu thống nhất…Có như thế các đối tượng nộp thuế mới biết được khoản thuế đó do ai chịu và mức thuế là bao nhiêu, trên cơ sở đó nghĩa vụ thuế mới được thực hiện một cách triệt để. Khi pháp luật thuế thu nhập cá nhân đảm bảo được yêu cầu đơn giản, rõ ràng thì sẽ đảm bảo được tính dễ thực hiện, dễ kiểm tra, giám sát. Bởi khi đó, đối tượng nộp thuế sẽ hiểu biết và tuân thủ luật thuế triệt để hơn, từ đó các cơ quan có thẩm quyền quản lý, kiểm soát thuế cũng thuận tiện và hiệu quả hơn.
Thứ tư, pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải đề cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đối tượng nộp thuế và có tính hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước. Một hệ thống pháp luật thuế nói chung trong cơ chế thị trường với quy luật tự do cạnh tranh đang chiếm ưu thế thì tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của bản thân các đối tượng nộp thuế cần phải được chú trọng hơn bao giờ hết. Để đề cao được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đối tượng nộp thuế đòi hỏi xây dựng theo
hướng áp dụng cơ chế tự tính, tự kê khai, tự nộp thuế của các đối tượng nộp thuế. “Trong trường hợp này đối tượng nộp thuế sẽ phải tự giác trong việc kê khai tính thuế, nộp thuế và thực hiện quyết toán thuế; tự chịu trách nhiệm về tính chính xác, tính kịp thời và kết quả thực hiện nghĩa vụ thuế của mình trước pháp luật chứ không trông chờ, ỷ lại vào cán bộ thu thuế” [17].
Pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải được xây dựng theo hướng tính hiệu lực, hiệu quả quản lý, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan thuế cũng như quy định về chế tài xử phạt các đối tượng cố ý trốn tránh, gian lận, chiếm đoạt tiền thuế. Có như vậy, thuế thu nhập cá nhân mới phát huy hết vai trò của mình.
Thứ năm, pháp luật thuế thu nhập cá nhân phải đáp ứng yêu cầu ổn định, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả, bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ với các quy định pháp luật của thuế thu nhập cá nhân đối với những khoản thu thường xuyên. Để đáp ứng yêu cầu ổn định, đòi hỏi việc xây dựng chế độ pháp lý của thuế thu nhập cá nhân phải dựa trên những căn cứ khoa học vững chắc, có cơ sở thực tiễn, tiên liệu trước được các yêu cầu của thực tế. Ổn định về mặt pháp lý là ổn định về đối tượng, phạm vi điều chỉnh, miễn thu giúp cho công tác hoạch định chiến lược của cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các tổ chức kinh tế được thuận lợi và có căn cứ tin cậy. Từ đó, tính khả thi và hiệu quả cũng được đảm bảo.
Một yêu cầu quan trọng nữa là phải đảm bảo sự đồng bộ giữa các quy định pháp luật nhằm tạo ra một luật thuế thu nhập cá nhân thống nhất. Không những đồng bộ trong cùng một hệ thống mà còn phải đồng bộ với hệ thống pháp luật khác như pháp luật quản lý thuế, pháp luật kinh doanh bất động sản, pháp luật chứng khoán,…
Thứ sáu, pháp luật thuế thu nhập cá nhân cần quy định phù hợp với thực trạng kinh tế xã hội. Hiện nay, mức thu nhập bình quân trên đầu người của Việt Nam còn thấp nên việc quy định mức thuế suất cần dựa trên nguyên tắc đảm bảo khuyến khích lao động sản xuất, tạo thu nhập ổn định và làm giàu chính đáng. “Do đó, mức thuế suất phải được quy định dựa trên nguyên tắc sau đây: Mức thuế suất phải đảm bảo, sau khi nộp thuế, người nộp thuế vẫn phải có được mức thu nhập không thấp hơn mức thu nhập bình quân chung” [12].
Thứ bảy, phải đảm bảo nguyên tắc hội nhập quốc tế. Khi mà hội nhập đã trở thành một xu thế tất yếu thì yêu cầu về tính tương đồng (tính hội nhập) đã trở thành xu hướng chung của các nước trên thế giới khi xây dựng luật thuế thu nhập cá nhân. Nó phải thể hiện được tinh thần của các hiệp định tránh đánh thuế hai lần hoặc chí ít cũng cần quy định các nguyên tắc áp dụng những hiệp định này trong việc xác định nghĩa vụ thuế của người nước ngoài có thu nhập tại Việt Nam hoặc thu nhập của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Việc đảm bảo yêu cầu này sẽ tạo cơ sở thúc đẩy sự phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại và thu hút đầu tư nước ngoài.
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân
3.2.1. Quy định về quản lý thuế
Từ việc tổng hợp và nghiên cứu những kinh nghiệm áp dụng quản lý thuế thu nhập cá nhân trên thế giới đã nêu ở phần trên, có thể rút ra một số kiến nghị để áp dụng vào thực tiễn quản lý thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam hiện nay như sau:
- Xác định đối tượng nộp Thuế thu nhập cá nhân
Nhằm kế thừa các quy định về quản lý thu nhập đối với người có thu nhập cao, khắc phục bất hợp lý của chính sách hiện hành là cá nhân mang quốc tịch Việt Nam nhưng sống ở nước ngoài vừa phải nộp thuế thu nhập ở Việt Nam vừa phải nộp thuế ở nước sở tại và đảm bảo tính khả thi của Luật thì việc xác định đối tượng nộp thuế cần xoá bỏ tiêu thức quốc tịch. Do vậy, việc kết hợp 2 tiêu thức cư trú và nguồn phát sinh thu nhập để xác định đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân trong Luật Thuế thu nhập cá nhân của Việt Nam là phù hợp với thực tiễn quản lý.
- Quản lý giảm trừ gia cảnh
Cũng giống như các nước đang phát triển, Việt nam lựa chọn áp dụng hình thức giảm trừ tiêu chuẩn để đảm bảo cho việc tính toán đơn giản, tiết kiệm chi phí hành thu, tạo thuận lợi cho NNT tuân thủ pháp luật và phù hợp với trình độ dân trí còn thấp.
Đồng thời, trên cơ sở chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước, trong Chiến lược cải cách thuế, Việt Nam xác định mức giảm trừ căn cứ vào cơ cấu thu nhập/chi tiêu của dân cư. Luật quy định về các khoản giảm trừ gia cảnh
với mức khoán bằng tiền cho đối tượng nộp thuế và người phụ thuộc. Bài học từ kinh nghiệm các nước là việc xác định đúng đối tượng người phụ thuộc cần có sự kết hợp quản lý với các cơ quan khác như quản lý hộ tịch.
- Về cơ chế tự khai tự nộp thuế thu nhập cá nhân
Theo cơ chế tự kê khai, tự tính toán số thuế phải nộp và tự thực hiện việc nộp thuế cho cơ quan quản lý thuế như hiện nay, thì người nộp thuế phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để xác định nghĩa vụ của mình mà không cần sự xác nhận của cơ quan thuế. Phương pháp này dựa trên sự tự nguyện của đối tượng nộp thuế và cơ quan thuế quản lý dựa trên kĩ thuật quản lý rủi ro. Với các thông tin này, người nộp thuế phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực, chính xác của việc kê khai khi cơ quan thuế tiến hành các biện pháp kiểm tra, thanh tra thuế chứ cơ quan thuế không trực tiếp can thiệp vào quá trình kê khai của cá nhân, tổ chức kinh doanh. Nếu có vi phạm pháp luật thuế thì sẽ bị cơ quan thuế cưỡng chế thi hành hoặc xử phạt vi phạm hành chính, thậm chí là sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc xây dựng cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế này, luôn luôn cần phải được đảm bảo 2 yếu tố:
- Bảo đảm quyền lợi của người nộp thuế;
- Bảo đảm sự bình đẳng giữa người nộp thuế và cán bộ công chức thuế (cơ quan quản lý thuế).
Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy, vẫn còn tồn tại rất nhiều bất cập xung quanh việc quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai tự nộp thuế, đồng thời không đảm bảo được 2 yếu tố nếu trên. Vì thế, việc hoàn thiện pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân để đảm bảo quyền lợi cũng như sự bình đẳng giữa các chủ thể của pháp luật thuế và tạo thuận lợi trong công tác quản lý thuế là cần thiết. Để giải quyết các bất cập đang tồn tại và định hướng quản lý thuế thu nhập cá nhân trong giai đoạn tới thì cần hoàn thiện pháp luật quản lý thuế về cơ chế tự khai tự nộp theo hướng sau:
Thứ nhất, đơn giản hóa hệ thống pháp luật đảm bảo sự minh bạch, giúp người dân dễ dàng tiếp cận và tìm hiểu chính sách thuế. Bản chất của cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế là người nộp thuế phải tự mình thực hiện các thủ tục để thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế, vì vậy, đòi hỏi người nộp thuế phải có sự hiểu biết nhất định về các quy định liên quan đến thuế thu nhập cá nhân. Muốn vậy, các luật thuế cần phải đơn giản, gọn nhẹ hơn nữa, giúp NNT dễ hiểu, dễ tiếp cận, từng quy định phải thật rõ ràng, không mơ hồ, không làm cho họ muốn hiểu thế nào cũng được.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thuế tới người dân nhằm nâng cao trình độ dân trí, sự hiểu biết và nhất là ý thức tuân thủ pháp luật thuế. Việt Nam là nước nông nghiệp, người dân làm nông cũng như các cá nhân, hộ kinh doanh nhỏ lẻ vẫn còn chiếm một phận không nhỏ trên tổng dân số cả nước. Vì vậy, những kiến thức pháp luật của họ về thuế còn chưa cao, hoặc có biết nhưng nhiều khi còn hiểu chưa đúng và chưa nhìn nhận được lợi ích mà thuế mang lại. Chính vì vậy, việc tuyên truyền pháp luật thuế đến với họ là rất cần thiết để NNT thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Ngoài ra, đối với các hộ kinh doanh cá thể chiếm khoảng 3% tổng thuế thu nhập đóng góp cho NSNN thì đa phần là nộp thuế theo phương pháp khoán thuế theo năm và cơ quan thuế ấn định mức thuế khoán đối với họ, thì người dân cũng phải hiểu biết pháp luật thuế để xác định cơ quan thuế có thu đúng mức hay không và quyền lợi mà các đối tượng thuế được hưởng có bị xâm phạm hay không. Để việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đến người dân một cách hiệu quả, cơ quan thuế cần phối hợp chặt chẽ với chính quyền, các tổ chức tại địa phương, cụ thể như là: tổ trưởng tổ dân phố, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên,… Có như vậy, mục đích cuối cùng của pháp luật thuế mới đạt được đó là tăng nguồn thu cho NSNN.
Thứ ba, nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc kiểm tra tính trung thực, chính xác của các thông tin trong quá trình kê khai của đối tượng nộp thuế tương ứng với việc tự chịu trách nhiệm về tính trung thực chính xác của thông tin của người nộp thuế. Rõ ràng, với cơ chế kê khai, nghĩa vụ thuộc về người nộp thuế, nhưng theo tôi trách nhiệm của cơ quan thuế cũng cần phải được chú trọng hơn nữa. Bởi vì, thứ nhất, với sự tiếp cận của người nộp thuế hiện nay với các văn bản thuế, quy định thuế còn hạn chế, cơ quan thuế - vị trí là những người hiểu biết chuyên sâu, cần phải có trách nhiệm giúp đỡ người nộp thuế cũng như là bảo vệ