quyền lợi của các đối tượng này nhằm giúp họ tránh được những sai lầm không đáng có. Thứ hai, đối với người nộp thuế mà có hành vi gian lận, trốn thuế bằng cách không kê khai đầy đủ tất cả các thu nhập từ kinh doanh, việc cơ quan thuế chỉ có trách nhiệm xác minh tính hợp lệ thông qua hồ sơ cho họ, thì sau này khi kiểm tra thanh tra để phát hiện có vi phạm pháp luật thuế hay không vừa mất thời gian, vừa mất công sức cũng như nếu không phát hiện vi phạm thì sẽ làm thất thu NSNN. Từ xưa đã có câu phòng bệnh hơn chữa bệnh, tại sao trách nhiệm kiểm tra, thanh tra không được thực hiện ngay từ những thủ tục thuế đầu tiên. Chính vì vậy, theo tôi để nâng cao trách nhiệm của cơ quan thuế, cần phải quy định việc áp dụng cơ chế tiền kiểm và hậu kiểm một cách linh hoạt hơn nữa.
Thứ tư, cần có chế tài pháp luật đủ nghiêm để răn đe các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Bên cạnh việc tôn trọng và hoàn thiện pháp luật để nhằm bảo đảm quyền lợi cho người nộp thuế thì với cơ chế tự khai tự nộp cũng cần phải đảm bảo quyền lợi và sự bình đẳng giữa NNT và cơ quan thuế. Pháp luật trao cho NNT quyền, không có nghĩa là họ được quyền làm bất cứ những gì họ thích và thích làm như thế nào cũng được. Pháp luật cần phải có các quy định, các chế tài đối với người nộp thuế để nhằm đảm bảo quyền thu thuế của Nhà nước, cụ thể là sự thuận tiện, dễ dàng trong công tác quản lý và thu thuế của cán bộ công chức thuế. Cần xây dựng các chế tài một cách chặt chẽ, nghiêm minh và đảm bảo tính răn đe với người nộp thuế khi họ có những vi phạm trong việc tự kê khai tự nộp thuế như hiện nay nhằm tránh những trường hợp việc kê khai của người nộp thuế gây khó khăn, làm mất thời gian, tốn kém chi phí trong quá trình kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế.
- Về quản lý thông tin người nộp thuế
Trong quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế, thông tin về người nộp thuế phải được xây dựng có tính hệ thống gọi là hệ thống thông tin về người nộp thuế. Do thông tin người nộp thuế chiếm vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân, nhất là trong thực tế, nhiều nhóm đối tượng có thu nhập chưa có sự quản lý sát sao của cơ quan thuế. Nếu đã nắm được các thông tin về đối tượng quản lý thì việc giám sát các đối tượng thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế của họ
sẽ dễ dàng hơn. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra như đã nói ở phần thực trạng về quản lý thông tin của người nộp thuế đó là, các thông tin mà NNT kê khai thường là những thông tin bí mật kinh doanh, hoặc có ý nghĩa quan trọng với họ, những với những tồn tại, bất cập trong công tác bảo mật thông tin của người nộp thuế như hiện nay khá là lỏng lẻo, chưa được cơ quan thuế chú trọng thì việc NNT e dè, ngại cung cấp thông tin là rất nhiều. Chính vì vậy, nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của người nộp thuế cũng như bảo đảm cơ quan thuế nắm được các thông tin phục vụ cho công tác quản lý thuế thì việc quản lý thông tin của NNT cần những yêu cầu như sau:
Bảo mật thông tin của người nộp thuế là trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, do đó, cơ quan thuế phải có trách nhiệm trong việc xây dựng một hệ thống và quản lý thông tin nhận được từ người nộp thuế hoặc tổ chức, cá nhân liên quan đến thông tin của người nộp thuế (như Ngân hàng, cơ quan cấp Giấy chứng nhận kinh doanh,…) trong hệ thống một cách chặt chẽ, sát sao và bảo đảm các thông tin này phải được bảo mật.
Cụ thể hơn, đối với các thông tin của người nộp thuế, cơ quan thuế cần phải có sự phân loại: thông tin thông thường và thông tin bí mật (nhạy cảm). Trong những thông tin về người nộp thuế, những thông tin thông thường có thể công khai, những thông tin nhạy cảm chỉ công khai khi cần thiết và những thông tin bí mật nghề nghiệp, bí mật đời tư không công bố, không công khai (Pháp luật có quy định trường hợp ngoại lệ khi NNT có hành vi vi phạm pháp luật thuế sẽ bị công khai thông tin). Những thông tin bí mật này cần phải được bảo mật một cách chặt chẽ. Việc bảo đảm bí mật thông tin nghề nghiệp được coi là vấn đề sống còn đối với người nộp thuế, vì vậy bảo mật thông tin là trách nhiệm của cơ quan thuế và cán bộ thừa hành nhiệm vụ.
Luật Quản lý thuế cho phép cơ quan quản lý thuế được công khai thông tin của người nộp thuế khi có các hành vi vi phạm pháp luật thuế. Do các quy định này chỉ mang tính chất định tính nên nhiều khi công khai thông tin về người nộp thuế do quyết định chủ quan của cơ quan thuế. Chẳng hạn chây ì nộp thuế một lần với khoản nộp hàng trăm tỉ đồng và chây ì nộp thuế nhiều lần với số tiền chây ì hàng
chục triệu đồng, chắc chắn mức độ nguy hại của hành vi khác nhau nên mức quy định về công bố thông tin nợ thuế chắc chắn không giống nhau. “Ngoài ra, pháp luật cần phải quy định cụ thể về số lần thông báo để tránh việc cơ quan thuế tùy nghi quyết định cũng như áp dụng các biện pháp ngăn chặn ngay khi nợ thuế lần đầu nhưng với số tiền lớn” [21].
Pháp luật cần quy định rõ trách nhiệm đối với cơ quan thuế trong việc giữ bí mật thông tin của người nộp thuế, chỉ rõ trường hợp nào cơ quan quản lý thuế được cung cấp cho các cơ quan khác khi có yêu cầu (chẳng hạn các cơ quan tố tụng). Đồng thời, pháp luật quy định rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp để lộ thông tin bí mật nghề nghiệp của người nộp thuế một cách có chủ ý. Chỉ có như vậy người nộp thuế và các chủ thể có liên quan mới cung cấp thông tin cho cơ quan thuế một cách cởi mở và cơ quan thuế mới có nguồn thông tin đa chiều nhằm phục vụ tốt công tác quản lí thuế của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp Luật Quản Lý Thuế Ở Bang Taxmania (Australia)
- Pháp Luật Quản Lý Thuế Ở Trung Quốc
- Định Hướng Hoàn Thiện Pháp Luật Thuế Thu Nhập Cá Nhân Ở Viêṭ Nam
- So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 15
- So sánh pháp luật quản lý thuế thu nhập cá nhân tại Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới - 16
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
Tóm lại, thông tin về người nộp thuế là yêu cầu quan trọng của công tác quản lý thuế hiện đại, đảm bảo cho cơ quan quản lý thuế theo dõi, tổng hợp, phân tích, đánh giá mức độ tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế. Trên cơ sở đó, cơ quan quản lý thuế tập trung vào quản lý các đối tượng có nhiều khả năng vi phạm pháp luật thuế, tránh thất thu ngân sách đồng thời giảm phiền hà cho đối tượng chấp hành tốt pháp pháp luật thuế. Luật Quản lý thuế quy định trách nhiệm cung cấp thông tin về người nộp thuế cho cơ quan quản lý thuế của các chủ thể là người nộp thuế, các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân có liên quan. Đồng thời Luật quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc xây dựng, quản lý hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin về người nộp thuế nhằm phục vụ cho công tác quản lý thuế. Ngoài ra, Luật Quản lý thuế còn quy định về việc bảo mật thông tin về người nộp thuế và các trường hợp cơ quan quản lí thuế được công khai thông tin vi phạm pháp luật thuế của người nộp thuế. Tuy nhiên, còn một số vấn đề pháp lý liên quan đến thông tin về người nộp thuế chưa được làm rõ, chưa được quy định cụ thể, cần được tiếp tục nghiên cứu, xây dựng, bổ sung và hoàn thiện để làm sao ngành thuế Việt Nam có được cơ sở dữ liệu thông tin đầy đủ, chính xác về người nộp thuế nhằm kiểm
soát được tất cả đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế; bảo đảm dự báo nhanh, chính xác số thu của ngân sách Nhà nước; phát hiện và xử lí kịp thời các vướng mắc, vi phạm pháp luật về thuế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế.
- Ý thức tuân thủ pháp luật quản lý thuế
Xu hướng quản lý thuế hiện nay ở nhiều nước trên thế giới là tiếp cận quan điểm coi người nộp thuế là khách hàng của cơ quan thuế. Theo sát định hướng này, nhiều quốc gia đã theo đuổi mục tiêu chiến lược trong quản lý thuế là tăng cường tối đa sự tuân thủ thuế của người nộp thuế. Do đó, để việc quản lý thuế nói chung và quản lý thuế thu nhập cá nhân nói riêng đi vào chiều sâu, pháp luật quản lý thuế Việt Nam nên hướng vào ý thức tuân thủ pháp luật của người nộp thuế.
Thứ nhất, sự thay đổi quan điểm về vị trí của người nộp thuế trong hệ thống thuế từ vị trí là đối tượng bị quản lý sang vị trí là khách hàng nhằm đảm bảo sự tự nguyện cao nhất của người nộp thuế. Một cơ chế khuyến khích tối đa sự tuân thủ tự nguyện sẽ đảm bảo số thu NSNN và giảm gánh nặng cho cơ quan quản lý thuế.
Thứ hai, quản lý thuế dựa trên sự đánh giá, phân loại người nộp thuế theo mức độ tuân thủ nghĩa vụ thuế và theo đặc điểm quy mô của người nộp thuế. Chiến lược quản lý thuế dựa trên sự phân loại người nộp thuế theo mức độ tuân thủ được thực thi thành công ở nhiều quốc gia như Australia, Hà Lan, Singapore. Đây là cách thức nhằm tạo ra sự công bằng cao nhất đối với người nộp thuế và cũng là phương pháp quản lý rủi ro của cơ quan thuế. Tuy nhiên, sự tuân thủ thuế được đánh giá dựa trên một số tiêu chí khá nhau phụ thuộc vào tình hình của mỗi quốc gia.
Thứ ba, đa dạng hóa dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế, cung cấp thông tin thuận tiện, nhanh chóng và kịp thời. Mục tiêu chung của hầu hết các quốc gia là dịch vụ hỗ trợ phải đảm bảo cung cấp thông tin tốt nhất cho người nộp thuế, tối thiểu hóa chi phí tiếp cận thông tin và thúc đẩy tính tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế, đồng thời, tăng hiệu quả dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế. Theo xu hướng hiện nay, các dịch vụ hỗ trợ của cơ quan thuế áp dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin vào thực hiện đăng ký thuế, kê khai, nộp thuế, nhận thông báo thuế qua mạng điện tử; khai thác thông tin, hỏi đáp vướng mắc qua điện thoại.
Việc tác động vào ý thức tuân thủ của người nộp thuế đã được cơ quan thuế các nước như Australia và Singapore thực hiện rất thành công. Đây chính là những bài học kinh nghiệm sâu sắc cho cơ quan quản lý thuế Việt Nam.
- Thời hạn, phương pháp kê khai thuế thu nhập cá nhân
Theo như đề cập ở chương 2 về thực trạng trong kê khai thuế thu nhập cá nhân, kê khai thuế là nghĩa vụ của người nộp thuế trên cơ sở họ tự thực hiện kê khai các thông tin và hoàn thành hồ sơ trong một thời hạn mà pháp luật quy định để nộp cho cơ quan quản lý thuế tiếp nhận hồ sơ. Mặc dù, với cơ chế tự khai, tự nộp thuế, người nộp thuế phải có nghĩa vụ thực hiện các thủ tục hành chính, nhưng pháp luật quản lý thuế cũng cần tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng, ban hành những quy định đúng với thực tế hơn nữa, trên hết đó là phải đảm bảo quyền lợi cho người nộp thuế. Không để tình trạng, đổ dồn trách nhiệm lên trên vai người nộp thuế mà quên đi, trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế cũng hết sức quan trọng.
Do đó, với những bất cập về thời hạn kê khai thuế như đã nêu ở trên, gây khó khăn và ảnh hưởng đến quyền lợi của người nộp thuế cần phải được thay đổi phù hợp hơn nữa. Hướng hoàn thiện này cũng giảm gánh nặng cho cơ quan thuế trong việc giải quyết các hồ sơ kê khai cũng như tạo sự tin tưởng của người dân vào cơ quan thuế khi quản lý thuế.
Hiện nay, thời hạn kê khai còn khá ngắn để người nộp thuế có thể hoàn thành đầy đủ hồ sơ thuế một cách chính xác. Ngoài ra, cơ quan thuế cũng phải tính đến trường hợp người nộp thuế sẽ phải bổ sung các thủ tục kê khai nếu có sai sót, mà thông thường đây là tình huống hay xảy ra nhất. Vì vậy, thời hạn kê khai cần phải được quy định dài hơn nữa, việc thay đổi này yêu cầu cơ quan quản lý thuế cần phải nghiên cứu thực tế và xem xét các vấn đề để có thể quyết định kéo dài thêm bao lâu là phù hợp. Có như vậy, quyền lợi của người nộp thuế mới được đảm bảo và trách nhiệm quản lý thuế của cơ quan thuế mới được thực hiện một cách hiệu quả.
Mẫu biểu kê khai thuế thu nhập cá nhân cần cải tiến đơn giản, dễ hiểu, dễ kê khai cho NNT. Về phương pháp kê khai nên áp dụng phương pháp hạn chế. Phương pháp này sẽ giúp loại bỏ các yêu cầu đối với tất cả các đối tượng chịu thuế phải nộp
tờ khai thuế, tạo sự công bằng hợp lý trong quản lý. Từ đó, cơ quan thuế Việt Nam có thể tập trung nguồn lực quản lý của mình vào việc kiểm soát những lĩnh vực được cho là có rủi ro cao nhất đối với số thu thuế thu nhập cá nhân là các đại lý khấu trừ, các đối tượng có nhiều nguồn thu nhập từ nhiều công việc, các cơ sở kinh doanh nhỏ và cá nhân hành nghề tự do, thay cho việc nếu không áp dụng phương pháp hạn chế thì cơ quan thuế sẽ phải xử lý số lượng lớn các tờ khai thuế mà thực tế thì mỗi tờ khai chỉ phải điều chỉnh rất nhỏ (gây tốn kém nguồn lực). Do đó, theo phương pháp này, chi phí tuân thủ đối với các đại lý khấu trừ và các cá nhân sẽ được giảm một cách đáng kể.
- Tổ chức quản lý thu thuế
Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, nền kinh tế đã có nhiều chuyển biến tích cực, tuy nhiên về trình độ quản lý vẫn còn ở mức trung bình so với các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Nguồn nhân lực chất lượng cao vẫn còn khan hiếm, trình độ, kinh nghiệm kỹ năng nghiệp vụ chuyên môn còn hạn chế. Do vậy, để phù hợp với thực tế Việt Nam, đồng thời học hỏi tiếp thu kinh nghiệm các nước trên thế giới thì về quản lý thuế thu nhập cá nhân cần phải lựa chọn hình thức đơn giản, phù hợp với đại đa số NNT, giảm chi phí quản lý hành chính cho cả NNT và cơ quan thuế. Nghiên cứu áp dụng phương pháp quản lý rủi ro vào tất cả các khâu quản lý thuế để tập trung nguồn lực giám sát, kiểm soát những đối tượng rủi ro cao.
3.2.2. Quy định của pháp luật về quản lý thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế thu nhập cá nhân đã chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2013. Để Luật này thực sự đi vào cuộc sống, tạo chuyển biến tích cực trong hoạt động quản lý thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công, khắc phục những hạn chế đã nêu ở phần trên, trong thời gian tới ngành thuế cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:
- Tham mưu cho Chính phủ, Bộ Tài chính ban hành các Thông tư quy định cụ thể, chi tiết các khoản thu nhập chịu thuế, đảm bảo mọi cá nhân khi kê khai thuế
thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công đều dễ hiểu, dễ kê khai và kê khai đầy đủ. Không để tình trạng cơ quan thuế và người nộp thuế không thống nhất cách hiểu khoản nào chịu thuế, khoản nào không chịu thuế. Đây cũng là cơ sở thuận lợi để cán bộ thanh tra có cơ sở tiến hành thanh tra, kiểm tra chi tiết các khoản thu nhập chịu thuế. Đồng thời, tham mưu cho ngành ngân hàng xây dựng lộ trình phát triển giao dịch thương mại, chi trả tiền lương, tiền công thông qua hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho ngành thuế quản lý thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công làm cơ sở cho việc xác định nghĩa vụ thuế.
- Kiến nghị về công tác tổ chức thu thuế: đẩy mạnh công tác quản lý thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân. Trong thời gian tới, các Cục, Chi cục thuế cần phối hợp chặt chẽ với các Đội thuế phường, xã để theo dõi sát tình hình thu nhập từ tiền lương, tiền công của các cá nhân, nắm chắc tình hình nguồn thu, các khoản giảm trừ của cá nhân theo quy định của pháp luật, kịp thời đưa vào kiểm soát, quản lý những đối tượng thuộc diện nộp thuế. Ngành thuế cần phát triển nhiều hình thức tuyên dương, vinh danh những cá nhân có nhiều thành tích đóng góp thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công vào ngân sách Nhà nước đúng, đủ, khuyến khích họ tiếp tục kê khai và thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công.
- Hoàn thiện pháp luật kiểm soát gian lận thuế thu nhập cá nhân: triển khai tốt các biện pháp nhằm ngăn chặn hiện tượng gian lận trong kê khai thuế thu nhập cá nhân từ tiền công, tiền lương. Ngành thuế cần tăng cường công tác tuyên truyền pháp luật về thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công cho rộng rãi đến quần chúng nhân dân. Đồng thời, từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống quản lý thông tin cá nhân người nộp thuế và hồ sơ giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc một cách hợp lý, sử dụng đồng bộ, liên thông trên toàn quốc, kết hợp với tăng cường rà soát, đối chiếu để ngăn chặn gian lận. Bên cạnh đó, cần ban hành các văn bản cụ thể hóa trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân chi trả tiền lương, tiền công trong việc kê khai thu nhập từ tiền lương, tiền công của người nộp thuế, kiểm soát, quản lý và có trách nhiệm xác minh các trường hợp người nộp thuế được giảm trừ
gia cảnh. Ngoài ra, cần thực hiện thường xuyên và có hiệu quả công tác thanh tra, kịp thời phát hiện những gian lận trong việc kê khai thuế thu nhập cá nhân từ tiền công, tiền lương.
- Đa dạng hóa các hình thức thu thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công. Hiện nay, thuế thu nhập cá nhân chủ yếu được thu tại Kho bạc Nhà nước, vì vậy người nộp thuế tốn kém về thời gian, chi phí đi lại để nộp thuế. Mặt khác, đối với phương pháp thu tại nguồn chỉ thích hợp với những cán bộ, công chức Nhà nước hoặc người lao động tại các doanh nghiệp, còn đối với người kinh doanh tự do, kinh doanh qua mạng … thì khó áp dụng. Vì vậy, ngành thuế cần cải tiến phương pháp thu, chú trọng hình thức thu qua ngân hàng, giúp người nộp thuế tiết kiệm được thời gian, công sức đi lại; ngành thuế hạn chế được tình trạng thiếu cán bộ; cán bộ thuế cũng giảm tải được công việc, hạn chế sai sót, đặc biệt là khi ngày càng nhiều người trong diện nộp thuế đến làm thủ tục kê khai và nộp thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công.
Thuế thu nhập cá nhân có đối tượng điều chỉnh rất rộng, đa dạng và phức tạp. Trong đó, thuế thu nhập cá nhân từ tiền công, tiền lương ngày càng chiếm tỉ trọng lớn trong nguồn thu ngân sách Nhà nước. Để Luật thuế thu nhập cá nhân được sửa đổi, bổ sung thật sự đi vào cuộc sống, tạo ra sự đồng thuận của quần chúng nhân dân, đặc biệt những người có thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công, đảm bảo công bằng giữa những người nộp thuế, tránh thất thu, ngành thuế cần nỗ lực thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thuế thuế thu nhập cá nhân từ tiền lương, tiền công.
3.2.3. Quản lý thuế thu nhập cá nhân đối với những khoản thu không thường xuyên
Thứ nhất, đối với thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán
Chuyển nhượng chứng khoán là cách thức để tổ chức và cá nhân có thể thu hồi được vốn đầu tư. Về nguyên tắc, Luật thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh thuế khi chuyển nhượng có thu nhập – khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua sau khi trừ đi các chi phí liên quan đến việc tạo ra thu nhập. Nhà đầu tư cá nhân có thu nhập từ