Điều động KTVNB trong tập đoàn: Để tăng tính hiệu quả và tiết kiệm chi phí, có thể thực hiện điều động KTVNB của các đơn vị khác nhau nhưng có chuyên môn phù hợp để phối hợp kiểm toán. Cách làm này thường tiết kiệm một khoản chi phí đáng kể phục vụ cho KTNB. Hơn nữa, cách làm này tạo ra một sự kiểm soát chéo về chất lượng của hoạt động kiểm toán. Hoặc có thể điều động KTVNB ở doanh nghiệp thành viên này sang KTNB tại doanh nghiệp thành viên khác.
Về phân chia trách nhiệm và nhiệm vụ trong bộ phận KTNB. Tuỳ vào đặc điểm riêng của từng tập đoàn để phân chia trách nhiệm trong bộ máy KTNB. Việc phân chia trách nhiệm trong bộ phận KTNB có thể theo phạm vi hoạt động (khu vực bắc, trung, nam…) hoặc theo lĩnh vực hoạt động. Nếu phân chia theo khu vực địa lý sẽ giảm thiểu chi phí đi lại, không tốn nhiều thời gian của kiểm toán viên nhưng tính chuyên môn hoá trong công việc không cao. Còn nếu phân chia theo lĩnh vực hoạt động thì nâng cao được tính chuyên môn hoá nhưng là không hiệu quả khi kiểm toán viên phải đi lại quá nhiều. Với những tập đoàn mà các lĩnh vực hoạt động đa dạng, mang tính chuyên biệt, bắt buộc phải phân chia công việc kiểm toán theo lĩnh vực. Đối với tập đoàn mà các lĩnh vực hoạt động có mối quan hệ mật thiết có thể phân chia trách nhiệm và công việc theo khu vực. Với các tập đoàn kinh tế của Việt Nam, do chuyển từ mô hình hoạt động của tổng công ty thành tập đoàn do đó các tập đoàn này đã có sẵn các doanh nghiệp thành viên hoạt động trong cũng một lĩnh vực kinh doanh chính. Ngoài ra, các tập đoàn này cũng đi theo xu hướng đa ngành, đa lĩnh vực nên rất nhiều tập đoàn đã mở rộng sang những lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới. Ví dụ như Tập đoàn Điện lực quốc gia có lĩnh vực kinh doanh chính là sản xuất và cung ứng điện nhưng lại có doanh nghiệp thành viên hoạt động trong lĩnh vực viễn thông (EVN Telecom). Do đó, giải pháp mà tác giả đề xuất là trong phòng hoặc ban KTNB của các tập đoàn sẽ được phân chia trách nhiệm cả theo khu vực địa lý và cả theo khối chức năng hoạt đông của tập đoàn.
Trong ban hoặc phòng KTNB cũng phân chia thành hai nhóm thực hiện các chức năng khác nhau: chức năng thực hiện nghiệp vụ và chức năng thiết lập chính sách và bảo đảm chất lượng. Với nhóm thứ hai phụ trách chính sách và đảm bảo chất lượng có thể thực hiện những công việc cụ thể như đào tạo, cập nhật kiến thức cho các KTVNB trong cả công ty mẹ và các công ty con, đánh giá chất lượng hoạt động KTNB. Liên kết bên trong của bộ phận KTNB được mô tả tại Sơ đồ 3.2.
Trưởng Phòng KTNB
Trưởng Nhóm KTNB
Vùng II
Trưởng Nhóm KTNB
Vùng II
Có thể bạn quan tâm!
- Xây Dựng Quy Trình Kiểm Toán Nội Bộ Cụ Thể Trong Các Tập Đoàn Tương Ứng Với Từng Loại Khách Thể Kiểm Toán
- Hoàn Thiện Kiểm Soát Chất Lượng Hoạt Động Kiểm Toán Nội Bộ Trong Tập Đoàn
- Hoàn Thiện Mô Hình Tổ Chức Kiểm Toán Nội Bộ Phù Hợp Với Quy Mô Và Đặc Trưng Về Liên Kết Của Các Tập Đoàn
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 26
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 27
- Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam - 28
Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.
Trưởng Nhóm KTNB
Vùng III
Trưởng Trưởng
Nhóm Nhóm
KTNB về KTNB về
lĩnh vực lĩnh vực
chuyên chuyên biệt biệt 1 1
Trưởng Nhóm Phát triển
Kiểm toán và chính sách
Trưởng Nhóm Đảm bảo Chất lượng
Kiểm Kiểm Kiểm
toán toán toán
chung chung chung
Kiểm toán lĩnh
Kiểm toán lĩnh vực
Kiểm toán lĩnh vực
Chức năng thực hiện nghiệp vụ
Chức năng thiết lập chính sách và bảo đảm chất lượng
Sơ đồ 3.2: Cấu trúc bộ phận KTNB theo khối chức năng và khối hỗ trợ
Nhằm tối ưu hoá tính độc lập, chức năng tác nghiệp và phi tác nghiệp của phòng KTNB phải được tách biệt hoàn toàn. Chức năng thực hiện nghiệp vụ sẽ thực hiện công việc kiểm toán dựa trên cơ sở phương pháp luận KTNB do bộ phận Phát triển Kiểm toán thiết lập.
3.4.2.2. Hoàn thiện tổ chức nhân sự kiểm toán nội bộ
Hoàn thiện bộ máy tổ chức chỉ có thể đạt được hiệu quả nếu các yếu tố cấu thành bộ máy được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Các yếu tố cấu thành bộ máy chính là nhân sự KTNB. Về nhân sự KTNB, có thể hướng đến hoàn thiện một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, Đảm bảo trình độ chuyên môn nghiệp vụ của KTVNB ngay từ khâu tuyển dụng: KTVNB trong các tập đoàn hiện nay chủ yếu là các kiểm toán viên độc lập hoặc các cán bộ tài chính kế toán có kinh nghiệp sang làm KTNB. Điều này dẫn đến xu hướng tiến hành KTNB chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính, quy trình thực hiện thường tương tự như quy trình của kiểm toán độc lập. Ngoài ra, các bộ phận KTNB của các tập đoàn hiện nay chưa đặt chuẩn cho các KTVNB về bằng cấp- trình độ nghiệp vụ, chứng chỉ nghề nghiệp hay các kỹ năng để trở thành KTVNB. Hiện nay, KTNB trong các doanh nghiệp thành viên tập đoàn chỉ mới đặt ra yêu cầu là có
trình độ nghiệp vụ về kế toán kiểm toán nhưng chưa có quy định riêng của tập đoàn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ liên quan đến lĩnh vực hoạt động của tập đoàn hay doanh nghiệp thành viên. Do đó, khi tuyển dụng thêm kiểm toán viên mới cần phải lựa chọn những người đáp ứng các yêu cầu cơ bản sau:
Một là, Đáp ứng các yêu cầu của Nhà nước và quy định riêng của tập đoàn trong tuyển dụng KTVNB, như quy định trong Quyết định số 832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28-10-1998 của Bộ Tài chính và Thông tư 171/1998/TT-BTC ngày 22-12- 1998.
Hai là, Có kinh nghiệp và trình độ chuyên môn về lĩnh vực hoạt động kinh doanh của tập đoàn. Có thể, những kinh nghiệm về ngành nghề kinh doanh sẽ được huấn luyện và bổ sung cho các KTVNB chứ không nhất thiết đòi hỏi ngay từ ban đầu.
Ba là, Về đạo đức nghề nghiệp: KTVNB phải là người trung thực, thận trọng, kiên trì, chịu khó, chưa từng bị kỷ luật trong công việc và luôn có ý thức phấn đấu hoàn thành công việc được giao. Ngoài ra, KTVNB phải là người biết giữ bí mật thông tin, tuân thủ tốt các quy định, có thể làm việc độc lập hoặc theo nhóm, có quan điểm riêng rõ ràng trong công việc.
Thứ hai, Duy trì năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp trong quá trình kiểm toán làm việc: Về duy trì năng lực chuyên môn, KTNB trong các tập đoàn đều chưa có yêu cầu số giờ bồi dưỡng nghiệp vụ liên tục (CPE- Continuous Professional Education ). Để duy trì và phát triển các KTVNB, bắt kịp với những thay đổi của môi trường kinh doanh và chính sách tài chính kế toán, KTVNB phải liên tục rèn luyện chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên yêu cầu đó chưa được đặt ra thành một quy định trong KTNB các tập đoàn hiện nay. Các tập đoàn có thể đưa ra số giờ bồi dưỡng nghiệp vụ liên tục cho mỗi KTVNB. Ở Mỹ, các công ty thường đặt ra số giờ bồi dường nghiệp vụ liên tục khoảng 80 giờ một năm cho các KTVNB.
Các tập đoàn phải đặt ra các yêu cầu về cấp bậc nghề nghiệp và yêu cầu các KTVNB bắt buộc phải tham gia đánh giá chuyên môn theo các cấp bậc nghề nghiệp trong phòng hoặc ban KTNB. Ngoài ra, bộ phận KTNB cần cử nhân viên tham gia các khoá tập huấn đào tạo hoặc mời chuyên gia đến giảng dạy, hướng dẫn. Bộ phận KTNB ở công ty mẹ có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ của KTNB ở công ty con,
đến lượt bộ phận KTNB ở công ty con lại tiếp tục hướng dẫn nghiệp vụ cho công ty thành viên của mình.
Các tập đoàn cần thiết kế các quy định về tuân thủ đạo đức nghề nghiệp. Tất cả các KTVNB phải ký vào bản cam kết tuân thủ các Quy tắc Đạo đức Nghề nghiệp khi gia nhập Phòng KTNB và hàng năm phải ký lại. Trưởng Phòng KTNB phải giám sát hành vi, thái độ và công việc của mỗi kiểm toán viên trong việc tuân thủ Quy tắc Đạo đức Nghề nghiệp và tiến hành điều tra trong trường hợp có biểu hiện vi phạm.
Những vi phạm Quy tắc Đạo đức Nghề nghiệp sẽ được đánh giá và xử lý theo các chính sách và quy trình quản lý nhân sự của tập đoàn. Một hành vi cụ thể nào đó chưa được đề cập trong Quy tắc Đạo đức Nghề nghiệp cũng có thể là hành vi không thể chấp nhận được hoặc làm mất uy tín, và do đó, tất cả các KTVNB có thể chịu kỷ luật đối với những vi phạm của mình.
Ba là, Các tập đoàn có thể thuê kiểm toán viên bên ngoài thực hiện KTNB dưới dạng các giám định viên kế toán. Các tập đoàn kiểm toán hiện nay mới chỉ xây dựng các bộ phận KTNB trong đơn vị thành viên chủ yếu dưới mô hình tổ chức là các phòng, ban, tổ KTNB còn rất ít sử dụng mô hình giám định viên kế toán. Các tập đoàn thuộc đối tượng nghiên cứu của luận án đều là các tập đoàn nhà nước do đó việc xây dựng KTNB chỉ theo mô hình phòng, ban, nhóm KTNB mà không xây dựng theo dạng giám định viên kế toán là một điểm hạn chế cần khắc phục. Các kiểm toán viên bên ngoài có thể là kiểm toán viên độc lập am hiểu về lĩnh vực hoạt động của tập đoàn có kinh nghiệm về KTNB. Các kiểm toán viên độc lập khi trở thành các giám định viên kế toán của các doanh nghiệp trong tập đoàn sẽ có những ưu thế nhất định về kỹ năng chuyên môn và về tính độc lập. Đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước, các giám định viên kế toán có thể là các kiểm toán viên nhà nước được cử xuống các tập đoàn làm giám sát thường trực. Tuy nhiên, để thực hiện được điều này, nhà nước phải có quy chế hoạt động của kiểm toán nhà nước quy định việc các kiểm toán viên nhà nước thực hiện KTNB.
Bốn là, Thực hiện luân chuyển cán bộ: Kiểm toán là nghề nghiệp đòi hỏi tính độc lập cao của người thực hiện. Đặc biệt với các KTVNB, vị trí công tác và môi trường hoạt động rất dễ ảnh hưởng đến tính độc lập của họ. Không thể đòi hỏi các KTVNB không có bất kỳ mối liên hệ nào với các đơn vị được kiểm toán. Về bản chất, KTVNB cũng chỉ là nhân viên trong tập đoàn do đó không tránh khỏi có những mối quan hệ đồng nghiệp với các nhân viên ở các bộ phận khác. Vì vậy, có thể luân
chuyển cán bộ làm KTVNB giữa các đơn vị thành viên làm giảm khả năng phát sinh các nhân tố ảnh hưởng đến tính độc lập của KTVNB.
3.4.2.3. Hoàn thiện mối liên hệ của kiểm toán nội bộ với kiểm toán bên ngoài
Đối với kiểm toán nhà nước: Các tập đoàn kinh tế nhà nước sẽ trở thành khách thể của hoạt động kiểm toán nhà nước theo Luật kiểm toán nhà nước. Khi được gửi kế hoạch kiểm toán và quyết định kiểm toán của kiểm toán nhà nước, KTNB sẽ phân công người phối hợp công việc với kiểm toán viên nhà nước. KTNB có trách nhiệm trợ giúp kiểm toán nhà nước trong cả khâu lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, kết thúc kế hoạch kiểm toán và phối hợp việc giám sát thực hiện kiến nghị của kiểm toán nhà nước.
Đối với kiểm toán độc lập: Điều 10 Nghị định số 105/2004/NĐ-CP ngày 30- 03-2004 của Chính phủ quy định về hoạt động của kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân quy định bắt buộc báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp nhà nước phải được kiểm toán bởi doanh nghiệp kiểm toán độc lập. Trong những năm qua, các tập đoàn đã giao cho Giám đốc các đơn vị thành viên trong tập đoàn thông qua tư vấn của KTNB đơn vị thành viên chủ động đàm phán, ký kết hợp đồng kiểm toán báo cáo tài chính với các Công ty kiểm toán độc lập. Trong quá trình thực hiện, để nâng cao chất lượng của kết luận của kiểm toán độc lập, khi đánh giá tư vấn lựa chọn kiểm toán độc lập để trình Ban kiểm soát và Ban giám đốc phê duyệt, KTVNB cần thực hiện những lưu ý sau:
Một là, Về phương thức lựa chọn công ty kiểm toán, các doanh nghiệp thành viên trong các tập đoàn thường thực hiện theo cách đàm phán trực tiếp với một công ty kiểm toán độc lập theo mức phí tối đa quy định của các tập đoàn chứ chưa thực hiện mời nhiều công ty kiểm toán để chọn môt công ty kiểm toán đáp ứng tốt nhất về thời gian thực hiện, phạm vi thực hiện và phí kiểm toán. Để thực hiện được điều này, bộ phận KTNB trong các tập đoàn cần đánh giá dịch vụ các công ty kiểm toán và lựa chọn các công ty kiểm toán độc lập phù hợp, lên danh sách gửi thư mời kiểm toán. Danh sách này sẽ được Tổng giám đốc hoặc Ban kiểm soát phê duyệt.
Hai là, Xét về bản chất, các công ty kiểm toán độc lập cũng chỉ thực hiện dịch vụ cho các doanh nghiệp thành viên của tập đoàn do đó KTNB cũng có trách nhiệm đánh giá chất lượng của kiểm toán độc lập. Để có thể đánh giá hoạt động của kiểm toán độc lập, KTNB công ty mẹ có thể xuống làm việc trực tiếp với kiểm toán độc
lập khi họ thực hiện công việc tại đơn vị thành viên. Việc đánh giá này nhằm mục đích bổ nhiệm, tái bổ nhiệm hoặc lựa chọn những công ty kiểm toán độc lập khác tốt nhất cho kỳ kiểm toán sau.
Ba là, Về xác định mức phí kiểm toán: Hiện tại Nhà nước chưa quy định mức giá phí kiểm toán báo cáo tài chính và bản thân các công ty kiểm toán cũng chưa có đơn vị nào xây dựng được dự toán về giá phí kiểm toán. Việc xác định mức phí kiểm toán khi ký kết hợp đồng kiểm toán báo cáo tài chính thường do các đơn vị thành viên và các công ty kiểm toán tự thoả thuận. Mức phí thuê kiểm toán độc lập hiện nay trong các tập đoàn cho tất cả các đơn vị thành viên tương đối lớn và không đồng nhất về cơ sở tính. Do đó, để tiết kiệm chi phí và nguồn lực trong các tập đoàn KTNB có thể xây dựng một mức phí trần cho việc thuê kiểm toán độc lập. Có thể xây dựng mức tính phí kiểm toán trần theo đơn giá theo giờ kiểm toán và thời gian tối đa kiểm toán dự tính của KTNB.
Đối với các tổ chức nghề nghiệp: KTVNB cần tăng cường tham gia vào các hiệp hội trong nước và quốc tế để nhằm cập nhật với những phát triển mới nhất của thông lệ KTNB và thông lệ quốc tế tốt nhất. Ví dụ như Hiệp hội Kiểm toán viên Độc lập (IIA), Hiệp hội Kiểm soát và Kiểm toán Hệ thống Thông tin (ISACA), Hiệp hội Kiểm tra viên Gian lận Công chứng (ACFE),v.v… Hiện nay, một số tổ chức hiệp hội nghề nghiệp này có tổ chức thi cấp chúng chỉ kiểm toán viên tại Việt Nam. Đây là cơ hội tốt cho các kiểm toán viên cập nhật kiến thức về KTNB theo thông lệ quốc tế.
3.5. KIẾN NGHỊ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
3.5.1. Đối với cơ quan nhà nước
Các văn bản pháp lý của nhà nước về KTNB hiện nay còn rất thiếu, chưa đồng bộ và tính khả thi còn chưa cao. Có thể dẫn chứng văn bản quy định về KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước như Quyết định 832/TC/QĐ/CĐKT ngày 28-10- 1997 ban hành kèm theo quy chế KTNB, Thông tư 52/1998/TT-BTC ngày 16-04- 1998 hướng dẫn tổ chức KTNB tại doanh nghiệp nhà nước, Thông tư 171/1998/TT- BTC ngày 22-12-1998 thay thế Thông tư số 52/1998/TT-BTC, và trong các tổ chức tín dụng như Quyết đinh số 37/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ngày 01-08-2006 ban hành Quy chế KTNB trong tổ chức tín dụng. Các văn bản pháp lý này chỉ đưa ra các hướng dẫn sơ bộ về tổ chức bộ máy, lĩnh vực hoạt động, điều
kiện của KTVNB, quy trình thực hiện KTNB, phương pháp KTNB. So sánh với các thông lệ quốc tế về kiểm toán như Chuẩn mực KTNB do IIA ban hành, Hướng dẫn thi hành Turnbull (Turnbull Giude) theo Đạo luật Combined Code của Vương quốc Anh, Đạo luật Sarbanes Oxley, Tác giả nhận thấy khung pháp lý của Việt Nam còn có những hạn chế sau:
Một là, Chưa có định nghĩa chính thức về KTNB trong các văn bản pháp luật.
Hai là, Chưa đưa ra phương pháp tiếp cận khi thực hiện kiểm toán theo một thông lệ chung trong các doanh nghiệp, chưa có quy định cụ thể về kiểm soát chất lượng hoạt động KTNB. Hiện nay chỉ có Quyết đinh 37/2006/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ngày 01-08-2006 ban hành Quy chế KTNB trong tổ chức tín dụng có đề cầp đến phương pháp tiếp cận của KTNB. Tuy nhiên, quyết định này chỉ có đối tượng áp dụng là các tổ chức tín dụng, các đối tượng khác chưa có quy định cụ thể về những nội dung này.
Hơn nữa, với các tập đoàn kinh tế, chưa có quy chế hoạt động và kiểm soát hoạt động các tập đoàn này gây những khó khăn không nhỏ cho KTNB trong các tập đoàn. Khi chưa có cơ chế quản lý nhà nước thì chưa thể xây dựng quy chế quản lý tài chính trong tập đoàn một cách hoàn thiện. Trong khi đó, quy chế tài chính lại là cơ sở pháp lý cho thực hiện tất cả các nội dung của KTNB trong tập đoàn.
Trên cơ sở này, Tác giả đưa ra một số đề xuất sau với các cơ quan nhà nước:
Thứ nhất, Nhà nước cần nghiên cứu, soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật về KTNB trong đó cần ưu tiên các nội dung về tổ chức bộ máy và về phương pháp tiếp cận của KTNB. Việc ban hành này sẽ tạo cơ sở cho hoạt động KTNB, thay đổi nhận thức của những người làm quản lý trong các doanh nghiệp nói chung và trong các tập đoàn kinh tế nhà nước nói riêng.
Bộ Tài chính cần sớm ban hành các chuẩn mực KTNB bao gồm các chuẩn mực đối với bộ phận KTNB và chuẩn mực đối với KTVNB. Khi hình thành các hiệp hội nghề nghiệp về KTNB, có thể giao cho hiệp hội nghề nghiệp soạn thảo và ban hành chuẩn mực KTNB.
Thứ hai, Các cơ quan nhà nước cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng hệ thống pháp luật, sớm ban hành quy định nhà nước về quản lý tập đoàn kinh tế nhà nước và hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Cho đến hiện nay, có rất nhiều văn bản
pháp luật về tập đoàn kinh tế nhà nước vẫn còn ở khâu dự thảo hoặc ở khâu xin ý kiến góp ý.
Thứ ba, Tạo cơ sở pháp lý cho các KTVNB chuyên nghiệp hoạt động. KTNB đang rất phát triển theo ba khía cạnh sau: phát triển KTNB như một tổ chức thể hiện ở sự hình thành một bộ phận độc lập trong đơn vị, phát triển như một chức năng thể hiện ở việc KTNB hướng vào tất cả các hoạt động của doanh nghiệp, sự phát triển như một nghề nghiệp thể hiện ở chỗ KTNB ở nhiều quốc gia tổ chức thi tuyển chuyên môn và cấp chứng chỉ. Do đó, Nhà nước cần tạo khung pháp lý cho hoạt động của các KTVNB chuyên nghiệp như các văn bản quy định về hoạt động của KTNB giống như cách thức quy định trong Nghị định của chính phù về Kiểm toán độc lập. Ngoài ra, nhà nước cần khuyến khích thành lập các hiệp hội nghề nghiệp KTNB.
3.5.2. Đối với các tập đoàn kinh tế
Nội dung kiến nghị này chủ yếu hướng đến các kiến nghị với lãnh đạo của các tập đoàn hiện nay, bao gồm:
Thứ nhất, Các tập đoàn kinh tế cần sớm xây dựng và hoàn thiện các quy định cho bộ phận KTNB và cho KTVNB. Trên cơ sở các văn bản pháp luật về KTNB, các tập đoàn kinh tế cần xây dựng Quy chế KTNB làm cơ sở thực hiện kiểm toán. Đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước, cần điều chỉnh ngay nội dung của các văn bản pháp lý đã ban hành trong mô hình hoạt động cũ là tổng công ty. Đặc biệt, các Quy chế KTNB, Quy chế tài chính của tổng công ty cần phải thay đổi lại.
Thứ hai, Để tạo sự phát triển hài hoà và đồng bộ trong tổ chức bộ máy, cần có kế hoạch chiến lược về phát triển KTNB trong tập đoàn. Kế hoạch này sẽ được coi là căn cứ phát triển kiểm toán trên cả hai mặt là tổ chức bộ máy KTNB và tổ chức công tác KTNB. Trong kế hoạch này, cần xác định khoảng thời gian cần thiết cho từng nội dung thực hiện.
Thứ ba, Thực hiện phân công trách nhiệm hợp lý trong bộ máy lãnh đạo phụ trách các chức năng thực hiện và chức năng kiểm soát. Các tập đoàn cần xác định lộ trình thay đổi có cấu tổ chức của KTNB. Trước tiên, phải tách bộ phận KTNB ra khỏi các bộ phận chức năng khác của đơn vị như bộ phận kế toán, bộ phận thống kê, bộ phận thanh tra. Sau đó, thiết lập cơ chế hoạt động của KTNB trực thuộc Hội đồng quản trị. Để làm được điều đó, cần có những thành viên độc lập trong Hội đồng quản trị và ban kiểm soát.