thỏa mãn nhu cầu tính dục mà để thấy được những trạng thái cảm xúc, những rung động thẩm mĩ, những khát vọng thầm kín nhất của con người gửi gắm ở trong đó, là nhà nho chính thống theo cửa Khổng sân Trình, Nguyễn Dữ phải chăng muốn mượn yếu tố thần kỳ này để né tránh dư luận, lên án những thế lực trói buộc những nhu cầu tối thiểu của con người. Những mối tình giữa người và hồn ma với màu sắc hoang đường, kỳ quái lại là mảnh đất màu mỡ để nhà văn thể hiện những tư tưởng tự do vượt ra ngoài khuôn khổ xã hội. Văn học kỳ ảo phản ánh sự phức tạp trong tư tưởng con người. Chuyện tình giữa người và hồn ma chỉ là chuyện có trong trí tưởng tượng. Viết về chuyện ma để đạt đến sự thoả mãn hiện thực bằng những việc không có thực. Đó là hoạt động, là trạng thái tư tưởng ở dạng thay thế. Như PGS.TS Trần Nho Thìn nhận xét: Nhưng điều quan trọng cần nhận xét là tuy không gian thời gian, sự việc kỳ lạ, huyền bí, mang đầy trí tượng tượng song mọi logic diễn ra đều thống nhất với logic của xà hội loài người. Thế giới tiên cảnh vẫn có cô tiên không từ bỏ lòng dục. Những cô gái ma quái nhưng khi yêu thì con tim cũng đầy cảm xúc thi ca lãng mạn và tình tứ… Vậy các thế giới tuy cách biệt nhưng con người trong các thế giới đó tư duy, xúc cảm như nhau. Họ bổ sung cho nhau, việc ở trần gian con người không làm được hay không được làm sẽ được thực hiện trong thế giới bên ngoài trần gian” [80,tr.404]. Những cô gái mạnh mẽ chủ động trong tình yêu, những mối tình tự do vượt lễ giáo, những bài thơ tình đầy sắc thái dục tính chỉ có thể được nói qua yếu tố kỳ ảo mà thôi.Với những trải nghiệm trong cuộc đời, Nguyễn Dữ đã cảm nhận sâu sắc nỗi bất hạnh, khổ đau và những bi kịch của thân phận người phụ nữ trong xã hội "trọng nam khinh nữ". Lựa chọn thể loại truyền kỳ và xây dựng những nhân vật nữ là hồn ma giúp Nguyễn Dữ thể hiện cái nhìn tiến bộ về những người phụ nữ dám vượt lên vòng cương toả của lễ giáo, tìm kiếm hạnh phúc. Nhiều nhân vật của Truyền kỳ mạn lụcphần nào phản ánh tâm lý dao động, muốn phá bỏ những rào cản xã hội của con người trong thời đại Nguyễn Dữ.
Có thể lý giải điều này theo cách, Nguyễn Dữ là nhà nho mang nặng tư tưởng của Nho giáo nên ông cho rằng những cuộc tình tự do mang đầy nhục cảm của trai gái là tội lỗi nên ông kể chuyện ma để lên án. Điều đó được thể hiện ở kết
cục không tốt đẹp của những số phận, những cuộc tình ân ái giữa người và hồn ma. Phải chăng bởi hành động của họ đã vi phạm nghiêm trọng những luật lệ kỉ cương của xã hội và tôn giáo nên nhất định sẽ bị trừng trị một cách triệt để? Phần lời bình ở cuối mỗi chuyện tình ma quái cũng cho ta thấy điều này. Sau khi kể về cuộc hoan lạc ái ân giữa hồn ma Nhị Khanh với Trình Trung Ngộ, tác giả bình: Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo cho thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì luôn mắc phải. Trung Ngộ là một gã lái buôn không có trí thức, không đủ trách vậy” [11,tr.43]. Lời bình đã nhận định Trình Trung Ngộ là kẻ “thất phu đa dục” và như một lời khuyên đấng nam nhi hãy từ bỏ lòng ham dục không tốt đẹp của mình. Lối sống phóng đãng, mải mê hành lạc của con người là hành vi sai lạc. Đắm chìm trong ham muốn, sắc dục, con người sẽ rơi vào lệch chuẩn với đạo lý cương thường, dần bỏ đạo đức tốt đẹp mà đến với điều xấu xa, đáng ghê sợ, làm hại đến thân mình. Đó là tai họa do sự tha hóa nhân cách, do lòng tham dục gây nên. Lời bình đó xuất phát từ cái nhìn khe khắt của Nho gia với dục tính của con người. Bài học rút ra sau cuộc tình của Hà Nhân với các hồn hoa cũng là: Than ôi, thanh lòng không bằng ít dục. Dục nếu yên lặng thì lòng trống rỗng mà điều thiện sẽ vào, khí bằng phẳng mà cái lý sẽ thắng, tà quỷ còn đến quấy nhiễu làm sao được. Chàng họ Hà lòng trẻ có nhiều dục vọng nên loài kia mới thừa cơ quyến rũ…tuy không dám mong đến được chỗ vô dục nhưng giá gắng tiến được đến chỗ quả dục thì tốt lắm” [11,tr.70]. Lòng ham muốn nữ sắc, dục tình là điều xấu sa, gây tác hại lớn cho nho sĩ. Vậy người quân tử phải tránh con đường nhỏ, quá ham mê với điều nhỏ, sa lầy với nó, sẽ mất đi những điều lớn trong cuộc đời.Trong Xương Giang yêu quái lục, lời bình là: "Xem thấy yêu nữ mê người, sẽ biết răn sợ trước sắc đẹp" [11,tr.137]. Đây là lời phát ngôn trực tiếp, mang tính chất thuyết lý định hướng giáo dục, cảnh giới con người trước bờ vực của sự sa đoạ. Nhận định về vấn đề này, PGS.TS Trần Nho Thìn viết: “Nhưng trong Truyền kỳ mạn lục, cái kỳ có chức năng trước hết chuyển tải diễn ngôn chính trị, đạo đức và thẩm mĩ của tác giả. Người đọc xưa vốn sống trong không gian tôn giáo huyền aỏ do chính tay họ tạo dựng, xung quanh họ nào đền, miếu, chùa, quán, những đàn tràng giải oan bên sông; hay do họ
gán cho: cây đa,cây gạo, bến sông,nơi nào cũng có thể nhìn thấy biểu tượng của tôn giáo. Họ tin những người có khả năng đặc biệt giao tiếp được với thế giới bên ngoài cõi đời. Tầm đón đợi của người đọc thời trung đại là mảnh đất tốt cho các thủ pháp khai thác cái kỳ ảo. Nương vào văn hóa tâm linh đó, tác giả thành thực muốn khai thác yếu tố kỳ ảo để giáo huấn đạo đức và gửi thông điệp chính trị, muốn phát biểu tư tưởng về con người túng dục và tưởng tiết dục, chế dục. Các lời bình thường để cho thấy quan niệm của tác giả về việc xử lý quan hệ giữa cái kỳ và cái thực theo chức năng giáo huấn của tác phẩm nghệ thuật” [80,tr.404].
3.2 Ngôn ngữ nhân vật
Đại thi hào văn học Nga Maxim Gorky đã từng nói: “Yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng của cuộc sống là chất liệu của văn học”. Thật vậy, ngôn ngữ chính là hình thức biểu hiện của văn học, là phương tiện để nhà văn viết tác phẩm và cũng là yếu tố đầu tiên để người đọc tiếp xúc với tác phẩm.
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như ngôn ngữ người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật… Trong Truyền kỳ mạn lục chúng ta thấy ngôn ngữ biểu hiện dục tính cũng được thể hiện ở hình thức ngôn ngữ nhân vật. Tìm hiểu ngôn ngữ nhân vật nữ thuộc thế giới siêu nhiên, những cung nữ, ca nhi và ngôn ngữ một số nhân vật nam nhân ta sẽ thấy điều đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Dục Tính Biểu Hiện Qua Các Nhân Vật
- Dục Tính Biểu Hiện Qua Những Biểu Tượng Dục Tính
- Nghệ Thuật Thể Hiện Sắc Thái Dục Tính Trong Truyền Kỳ Mạn Lục Của Nguyễn Dữ
- Tìm hiều sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục - 12
- Tìm hiều sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục - 13
- Tìm hiều sắc thái dục tính trong Truyền kỳ mạn lục - 14
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Người phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn phải sống trong sự ràng buộc của những quy định nghiêm ngặt của Nho gia. Thân phận của họ là thân phận bị phụ thuộc, bị thiệt thòi. Những quan điểm của thuyết tam tòng, những quy định “Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” khiến cho người phụ nữ, nhất là trong tình yêu, tình dục không bao giờ được chủ động. Đối với những người phụ nữ đoan chính, ngay cả trong suy nghĩ của mình họcũng không dám nghĩ đến chuyện trăng hoa nói chi là những phát ngôn táo bạo về dục tính. Vậy mà ở Truyền kỳ mạn lục, tình dục lại là nhu cầu thiết yếu của nhân vật và được phát ngôn thật táo bạo ở những nhân vật ma nữ. Nguyễn Dữ để cho các nhân vật này dùng ngôn ngữ đầy sắc thái hoan lạc gợi ham muốn nhục dục. Ngôn ngữ của nhân vật Nhị Khanh, nàng Đào, nàng Liễu
trong Chuyện cây gạo và Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây ta cũng thấy đầy dục tính với khao khát được yêu đương, hoan lạc. Nàng Nhị Khanh đã hơn một lần nói lên những suy nghĩ của mình về khát vọng ái ân: “Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa”(...)“Thân tàn một mảnh với cái chết cũng chẳng bao xa. Ngày tháng quạnh hiu, không người chăm sóc. Nay dám mong quân tử quạt hơi dương vào hang tối, thả khí nóng tới mầm khô, khiến cho tía rụng hồng rơi, được trộm bén xuân quang đôi chút, đời sống của thiếp như thế sẽ không phải phàn nàn gì nữa”(…) “ Người ta sinh ra ở đời, cốt được thỏa chí, chứ văn chương thời có làm gì, chẳng qua rồi cũng một nấm đát vàng là hết chuyện… Sao bằng ngay trước mắt, tìm thú vui say để khỏi phụ mất một thời xuân tươi tốt” [11,tr.36]. Không đề cập đến những luân lý đạo đức của Nho gia, diễn ngôn của Nhị Khanh đưa ra những đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu ái ân. Không chờ một hạnh phúc ái ân ở thế giới bên kia mà đòi hỏi ngay khi còn trên dương thế. Đặt vào bối cảnh văn hóa, văn họctruyền thống, chủ thể của những diễn ngôn về dục tính hầu như thuộc về nam giới, người phụ nữ không có quyền đặt ra vấn đề dục tính thìphát ngôn của nàng thật táo bạo biết bao! Khi Trung Ngộ biết nàng là ma sợ quá định bỏ chạy, một lần nữa Nhị khanh lại thể hiện sự táo bạo, mạnh mẽ của mình trong tình yêu thể hiện qua câu nói: Chàng đã từ xa lại đây, quyết không có lý nào còn trở về nữa. Phương chi trong bài thơ bữa nọ, thiếp chả đã từng lấy cái chết mà hẹn hò nhau! Xin sớm theo nhau đi cho được thỏa nguyền đồng huyệt. Nằm vò võ một mình như vậy, lẽ đâu nay thiếp lại để cho chàng về”[11,tr.39]. Câu nói của Nhị khanh đã thể hiện sự chủ động, quyết liệt để giành hạnh phúc cá nhân của mình.
Hai nàng Đào Hồng Nương và Liễu Nhu Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây thì ngay từ buổi đầu gặp gỡ Hà Nhân đã chủ động nói lên những triết lý hưởng thụ của mình “nay gặp tiết xuân tươi đẹp, chúng em muốn làm những bông hoa hướng dương, để khỏi hoài phí mất xuân quang” [11,tr.54]. Những lời nói đó thể hiện niềm khao khát hoan lạc ân ái.Với họ, hạnh phúc là được yêu đương dù chỉ là giây lát ngay trong cuộc sống trần thế này. Khi Hà Nhân lả lơi cợt ghẹo, hai nàng cũng
đáp lại bằng ngôn ngữ tuy hàm ẩn nhưng chứa đựng màu sắc nhục dục: “Chúng em việc xuân chưa trải, nhụy thắm còn phong, chỉn e mưa gió nặng nề, hoặc không kham nổi cho những tấm thân hoa mềm yếu” [11,tr.54]. Hai nàng còn cho rằng: “ Ham vui ân ái, ai ai chẳng lòng” [11,tr.54] . Đó là khát vọng sống, khát vọng yêu theo đúng nghĩa của một con người. Không còn là thứ tình yêu thuần túy tinh thần mà là tình yêu gắn với tình dục. Ý thức giới của người phụ nữ phải chăng được thể hiện ở đây.
Để trả công ơn viên quan họ Hoàng đã giúp mình hoàn thành tâm nguyện, hồn ma Thị Nghi trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang đã chủ động bày tỏ việc kết duyên với Hoàng: “ Thiếp cùng chàng vốn chẳng hẹn hò, bỗng nên gặp gỡ. Nhưng trước kia vì cha mẹ chưa được mồ yên mả đẹp, cho nên phải chống lại những sự đùa cợt của chàng. Nay việc đã viên thành, vậy xin được đem mình hầu hạ khăn lược, vả lại chàng đi làm quan xa, giúp trong thiếu kẻ, vậy thiếp xin đương những công việc tảo tần” [11,tr.187].
Ngôn ngữ của Hàn Than trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị cũng là ngôn ngữ táo bạo và không bị bó buộc bởi những phép tắc ngặt nghèo của Nho gia. Khi chết rồi, hồn ma nàng hiện về muốn lôi kéo Vô Kỷ trở thành ma giống mình, thẳng thắn nói lên vấn đề muốn được tự do yêu đương ngay cả khi chỉ là những hồn ma:“sống còn chưa được thỏa yêu đương, chết sẽ cùng nhau quấn quýt” [11,tr.89]. Để rồi đến văn học hiện đại Việt Nam, chúng ta lại bắt gặp những phát ngôn thể hiện quan niệm táo bạo này trong những câu thơ trong bài Đa tình của nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Diệu: Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma.
Rồi ngay cả sư Vô Kỷ là tăng nhân cũng có những phát ngôn thể hiện sự tự do luyến ái thật rõ. Không nghe theo lời sư cụ Pháp Vân cảnh báo, sư cho Hàn Than ở chùa. Trước sắc đẹp lả lơi của người con gái này, Vô Kỷ đã say lòng và cùng Hàn Than ân ái. Khi Hàn Than chết, Vô Kỷ đã nói lời chân thành: Em ơi, em vì anh mà chết một cách oan uổng. Nếu anh được theo em cùng chết anh rất sẵn lòng, khỏi để em vò võ một mình ở nơi chín suối. Huống chi em bình sinh vốn thông tuệ, khác hẳn với mọi người thường, nếu có linh thiêng, sớm cho anh được theo về dưới đất, anh không muốn lại trông thấy sư cụ Pháp Vân nữa” [11,tr.89]. Yêu đến độ sống chưa thỏa nguyện mà muốn được chết theo người mình yêu. Cho nên trong một câu nói
mà có đến hai lần Vô Kỷ đòi được đi theo Hàn Than về nơi chín suối để thỏa mãn lòng dục. Đó là lời khóc chân tình bộc lộ tâm trạng đau đớn của vị sư “chưa quên mùi tục” tuy đã “bén hơi thiền”.
Tóm lại, nếu như trong văn học trung đại nói chung, ngôn ngữ nhân vật thường bị lẫn với ngôn ngữ tác giả thì ngôn ngữ của nhân vật trong Truyền kỳ mạn lục bước đầu đã có nét riêng. Ngôn ngữ của họ là thứ ngôn ngữ mang tính chất táo bạo, chủ động đề cập đến dục tính, điều bị coi là cấm kị trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên ở đây Nguyễn Dữ đã mượn lời của những hồn ma, những nhân vật phản diện mà nói hộ, phát ngôn hộ tư tưởng tự do yêu đương. Khó có thể nói tác giả đã hoàn toàn đồng tình và dám bảo vệ cho những diễn ngôn đầy tính nhục dục này nhưng phần nào chúng ta thấy được tinh thần nhân đạo đáng trân trọng ở nhà Nho Nguyễn Dữ khi đề cập đến khát vọng tự nhiên, khẳng định trực tiếp quyền sống thân xác của con người đặc biệt là người phụ nữ.
3.3. Ngôn ngữ thơ
Trong Truyền kỳ mạn lục, bên cạnh ngôn ngữ văn xuôi Nguyễn Dữ dùng để kể và miêu tả người, việc thì ngôn ngữ thơ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện tâm lý, tính cách nhân vật tạo nên sức hấp dẫn riêng cho tác phẩm. Bàn về nghệ thuật của tác phẩm, GS. Bùi Duy Tân nhận định: "văn Truyền kỳ mạn lục kết hợp một cách tự nhiên giữa văn tự sự, văn trữ tình… Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ; coi trọng nhịp điệu, âm thanh, làm cho câu vănthường cân xứng, đối lập một cách hài hoà" [66,tr.406].
Truyền kỳ mạn lục có tới 14/20 truyện sử dụng yếu tố thi ca và văn xuôi có vần. Ở hầu hết các truyện nói về đề tài tình yêu, các bài thơ xuất hiện tương đối nhiều. Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên có 11 bài, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị có 11 bài, Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây 8 bài, Chuyện nàng Túy Tiêu 5 bài. Trong đó, thơ Đường luật là phổ biến hơn cả. Thể thơ Đường luật phù hợp với việc diễn tả tâm trạng, cảm xúc của nhân vật. Hầu như các nhân vật của Truyền kỳ mạn lục đều làm thơ để trao gửi tâm sự, tình cảm, xướng hoạ, nhất là khi yêu cũng như khi chia lìa, xa cách: Trọng Quỳ đã mượn thơ ca để diễn tả niềm vui sum họp với Nhị Khanh và
để thể hiện tâm trạng ăn năn hối hận khi dồn vợ đến cái chết (Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu); Chàng thư sinh Hà Nhân mượn thơ ca để ca ngợi tình yêu (Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây); Từ Thức làm thơ để giãi bày tâm sự (Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên); Vợ chồng Dư Nhuận Chi -Tuý Tiêu xướng hoạ để gửi gắm tình yêu và nỗi nhớ mong khi chia li, cách trở (Chuyện nàng Tuý Tiêu)… Đặc biệt trong những câu chuyện viết về tình yêu thì ngôn ngữ thơ mang đầy màu sắc dục tính.
Trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, những bài thơ của nàng Đào, Liễu làm nhân lúc ái ân tình nồng với Hà Nhân mang đậm sắc thái dục tính và qua đó cho ta thấy được tính cách của nhân vật. Phút giây hoan lạc được nàng Liễu tả trong những dòng thơ sau:
Dịch:
Dịch:
Xạ trầm lương hãn thấp la y, Thuý đại khinh tần bát tự my.
Báo đạo đông phong khoan đả lục, Tiêm yêu bãi loạn bất thăng suy.
Mồ hôi dâm dấp áo là,
Mày xanh đôi nét tà tà như chau. Gió xuân xin nhẹ nhàng nhau
Thân non mềm chịu được đâu phũ phàng. Nàng Đào thì cất lên những câu thơ: Thiên cao cấm ngữ lậu thanh trì,
Đăng ủng ngâm giang xuất giáng duy. Phân phó tài lang phan chiết khứ, Tân hồng nhận thủ tiểu đào chi.
Cung sâu thưa điểm giọt rồng,
Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh. Tài lang mặc sức vin cành,
Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi.
…
Cung sâu thưa điểm giọt rồng
Ngọn đèn soi tỏ trướng hồng lung linh. Tài lang mặc sức vun cành,
Đào non nhận lấy những nhành thắm tươi. [11,tr.56]
Hai bài thơ không ngần ngại miêu tả quan hệ dục tính và tình trạng chốn buồng the với những từ ngữ nhắc đến thân thể, gợi liên tưởng đến quan hệ thân xác nam nữ và qua đó chúng ta thấy được tính cách của hai nàng trong quan hệ ân ái cũng thật khác nhau. Nếu nàng Liễu e dè, kín đáo bao nhiêu thì nàng Đào lại mạnh mẽ, nồng nhiệt trong gối chăn bấy nhiêu. Dù trong lúc “lửa đượm hương nồng”, nàng Liễu vẫn ý thức được “thân bồ vóc liễu”nên nhắc nhở người tình lang hãy nhẹ nhàng. Còn nàng Đào sẵn sàng đón nhận và hưởng ứng nhiệt thành những ái ân của tài lang kèm theo cả lòng biết ơn tình cảm của chàng trai đa tình dành cho thiếu nữ.
Tác giả không ngần ngại để cho Hà Nhân khen thơ của Đào, Liễu “Tình trạng trong chốn buồng xuân, tả đến như thế thì thật là tuyệt diệu, lời hoa ý gấm tôi khó lòng theo kịp hai nàng” [11,tr.56]. Và chàng cũng hớn hở kể rõ tâm trạng của mình khi cùng một lúc làm tình với hai người:
Quyện uyển thư trai khách mộng dung, Ngộ tuỳ vân vũ đáo Vu Phong.
Giao phi điệp lộng sâm si bạch, Liên đế hoa khai thứ đệ hồng.
Tĩnh túc nhiệm giao oanh thướng há, Phân lưu nhẫn cấm thuỷ tây đông.
Tuyệt nhiên quân thị phong lưu chủng, Hứng đáo phong lưu tự bất đồng.
Dịch:
Quê khách buồng văn giấc lạnh lùng, Mây mưa bỗng lạc tới Vu Phong.