Bảng 7: Tìm hiểu mức độ quan trọng của các bộ phận thực hiện Đgiá
Tìm hiểu nguyên nhân "tại sao việc Đgiá GV chưa đảm bảo đúng thực chất", chúng
tôi đã nhận một số ý kiến khá thống nhất từ các CBQL như sau:
- Một thời gian khá dài, CB - GV ngành GD ở trong hoàn cảnh quá khó khăn về đời sống do chế độ lương không thỏa đáng; việc họ cố gắng giữ nghề đã là đáng trân trọng. Trong điều kiện đó, việc Đgiá đã không được coi trọng đúng mức; kết quả Đgiá không trỏ thành động cơ cho hoạt động của một số GV và chưa được sử dụng một cách mạnh dạn trong công tác quản lý nhân sự của HTrưởng (ngoại trừ một số trường hợp sự yếu kém quá rõ ràng). Khoảng mười năm nay, tuy việc Đgiá đã có chỉ đạo sát sao hơn nhưng tâm thái của CB - GV trong Đgiá vẫn còn chịu ảnh hưởng của nếp cũ.
- Cơ chế cũ tuy cho phép quyền bố trí sử dụng nhưng không giao quyền thực sự trong việc không sử dụng GV yếu chuyên môn cho HTrưởng; do vậy, nếu GV đơn thuần cố gắng duy trì kỷ luật chung và không có sai phạm lớn về tư tưởng, đạo đức vẫn có thể "yên tâm tại vị". Kết quả là một bộ phận GV có tư tưởng phấn đấu cầm chừng, trung bình chủ nghĩa luôn tồn tại và việc bố trí họ vào các công việc ngoài giảng dạy cũng không phải dễ dàng.
- Riêng khu vực trường BC, tuy các việc nêu trên cũng có ảnh hưởng nhất định song cái khó ở khu vực BC là việc chất lượng HS trung bình - yếu chiếm đa số, điều này làm cho việc Đgiá chịu ảnh hưởng do phải căn cứ vào kết quả học tập của HS đồng thời việc xếp loại cũng có thể không chính xác .
2.3.4. Tác dụng của quá trình Đgiá.
Việc tăng cường TTra và thực hiện Đgiá GV gần đây đã có những tác dụng:
- Từ nội dung đề ra trong tiêu chuẩn Đgiá, bản thân GV thấy rõ những công việc, những yêu cầu và mục tiêu cần thực hiện nghĩa là định hướng được hoạt động và sau đó từ kết quả Đgiá biết mức độ chất lượng hoạt động của mình.
Mặt tích cực không thể phủ nhận là thông qua quá trình Đgiá, tập thể (đặc biệt là Tổ CM) có cơ hội giúp đỡ, động viên mỗi thành viên nhận thức được khả năng thực hiện nhiệm vụ của mình cũng như đề ra hướng khắc phục những hạn chế nếu có. Đối với các GV tích cực, có ý thức trách nhiệm nghề nghiệp cao kết quả Đgiá tốt còn là niềm tự hào, là sự động viên giúp họ tiếp tục phát triển.
- Về phía nhà quản lý, kết quả Đgiá đã được quan tâm sử dụng ữong hoạt động quản lý nhân sự; nhờ đó việc tuyển dụng, phân công GV dạy lớp, đề bạt, khen thưởng... đã được căn cứ trên cơ sở năng lực thực sự, Thời gian gần đây, chất lượng và hiệu quả là một thách thức đồng thời cũng là cuộc đua tranh nhằm khẳng định vị trí, vì vậy HTrưởng các trường nhận thức được lợi ích nhiều mặt của việc Đgiá GV và cố gắng cải thiện để hoạt động này đạt hiệu quả.
- CBQL cũng như GV đều nhận thức rằng nhân tố GV mang ý nghĩa quyết định trong chủ trương đổi mới GD, do vậy ý thức về tầm quan trọng của hoạt động Đgiá cũng được nâng cao. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng kết quả Đgiá như một động lực trong việc yêu cầu GV phấn đấu nâng cao trình độ và hiệu quả công tác, góp phần tích cực cho sự nghiệp phát triển GD.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ những kết quả nghiên cứu thực trạng của vấn đề, xin có vài tóm tắt:
Việc tổ chức và thực hiện công tác Đgiá việc thực hiện nhiệm vụ của GV tại các trường thời gian gần đây đã đi vào nề nếp và có chiều hướng nghiêng về phía kết quả hoạt động và hiệu quả giảng dạy, GD.
Hệ thống văn bản pháp lý của cấp Bộ và Sở làm cơ sở cho việc Đgiá vừa còn thiếu, vừa không đồng bộ; tiêu chuẩn chưa phân hóa hợp lý và thước đo chuẩn thường định tính nhiều hơn định lượng tạo khó khăn cho việc sử dụng.
Đgiá GV là vấn đề nhạy cảm, phức tạp chịu sự chi phối khá lớn về mặt tâm lý - tình cảm thậm chí cả vì sánh thành tích nên có chỗ không thực chất.
Đối với khu vực BC, điều đáng quan tâm là chất lượng HS còn yếu và đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả giảng dạy của GV.
Biện pháp, phương thức hành động của các cấp quản lý sau Đgiá chưa đại hiệu quả cho cả người quản lý lẫn GV.
Chương 3: GIẢI PHÁP VƯƠN ĐẾN SỰ HOÀN THIỆN VIỆC
ĐÁNH GIÁ GIÁO VIÊN TRƯỜNG THPT BÁN CÔNG
3.1. Một số căn cứ trong việc đề xuất giải pháp hoàn thiện.
3.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất quan tâm đến sự nghiệp GD, Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được khẳng định mang tính nhân văn sâu sắc bởi tinh thần cho con người và vì con người, vấn đề "trồng người" chiếm một vị trí đặc biệt trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Người thầy giáo Nguyễn Tất Thành năm xưa, với vai trò người lãnh đạo đã khẳng định "chăm sóc và GD tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân" và để thực hiện được điều đó, trước hết đòi hỏi sự nỗ lực, tận tụy của những người làm công tác GD. Người khuyên các thầy cô:"Phải hiểu rằng không có công tác gì vẻ vang bằng việc chăm nom bồi dưỡng các cháu là những người chủ tương lai của nước nhà... các cô, các chú phải nâng cao tinh thần trách nhiệm" vì thế "những thầy giáo, những CB GD đều phải luôn cố gắng học thêm, học chính trị, học chuyên môn. Nếu không tiến bộ mãi thì sẽ không theo kịp đà tiến chung, sẽ trở thành lạc hậu".
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về GD, nghị quyết trung ương lần thứ hai - khoa VIII với nội dung yêu cầu đổi mới GD nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã xác định phát triển GD và đào tạo là một trong những động lực quan trọng ... là điều kiện để phát huy nguồn lực con người -yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững và trong đó "GV là nhân tố quyết định chất lượng của GD và được xã hội tôn vinh, GV phải có đủ đức tài" . Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX, một lần nữa khẳng định nhiệm vụ:" tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dụctoàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa", đó cũng là quan điểm chỉ đạo cho việc xây dựng chiến lược phát triển GD 2001 - 2010. Một trong các giải pháp phát triển GD được nêu trong chiến lược phát triển GD là đổi mới quản lý GD với yêu cầu thực
hiện đổi mới cơ chế và phương thức quản lý GD; với tinh thần đó, phương thức Đgiá việc thực hiện nhiệm vụ người GV được hoàn thiện và thể chế hóa theo hướng quản lý nội dung và chất lượng đào tạo đồng thời với việc hoàn thiện cơ chế quản lý hoạt động của các loại hình trường.
TP.HCM, với tư cách là trung tâm đô thị lớn, có ảnh hưởng lớn trong khu vực và cả nước trong mọi lĩnh vực: khoa học kỹ thuật, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ phải "đi trước và về trước" đã đề cập đến việc chăm lo phát triển nguồn nhân lực và chủ trương phải kiện toàn và phát triển ngành giáo dục - đào tạo thành phố theo định hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Một trong những chỉ đạo quan trọng liên quan đến đề tài là "không để GV yếu kém đứng lớp, không để CB yếu kém tiếp tục quản lý nhà trường"; chủ trương trên đòi hỏi các cấp quản lý GD phải thực hiện nghiêm túc và chính xác việc Đgiá chất lượng CB - GV và đối với GV việc thực hiện nhiệm vụ là vấn đề then chốt.
3.1.2. Định hướng về tình hình phát triển các trường THPT BC tại thành phố.
3.1.2.1. Khả năng phát triển trường BC.
Tại TP.HCM, ngoài 14 trường THPT BC hầu hết các trường THPT công lập đều có lớp BC (chẳng hạn ở năm học 2000 - 2001 có khoảng 32% HS BC trong trường công). Như đã nêu trong phần thực trạng, S.GD - ĐT đã có kế hoạch để giải quyết vấn đề phân biệt rạch ròi loại hình trường từ năm 1997 nhưng quá trình thực hiện đã không trọn vẹn như mong muốn. Định hướng về tình hình phát triển các trường BC trong tương lai, trước hết xin nêu lại vấn đề lớp BC trong trường công về mặt pháp lý:
- Loại hình trường BC có qui chế hoạt động được công nhận bởi QĐ 39/2001/QĐ- BGDĐT ngày 28.8.2001 (trước đây là Qui chế trường BC theo QĐ1932 ngày 20.08.91) nhằm thực hiện tốt chủ trương đa dạng hóa trường lớp, đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí của nhân dân đặc biệt là ở thành thị.
- Luật giáo dục tuy không nói cấm mở lớp BC trong trường công một cách cụ thể nhưng khẳng định rõ các loại hình : Công lập - BC - dân lập và tư thục.
- Hướng dẫn 7382 THPT ngày 08.08.2000 về việc thực hiện nhiệm vụ bậc Trung học năm 2000 - 2001 đã đề cập tới vấn đề lớp BC trong trường công: "Ở những nơi chưa có điều kiện mở trường BC - dân lập, cho phép mở một số lớp BC trong trường công không vượt quá 20% chỉ tiêu tuyển công lập cùng khối lớp và những năm tiếp theo cần cắt giảm dần tỉ lệ tuyển sinh vào lớp BC trong trường công; tích cực tham mưu với các cấp Ủy Đảng và chính quyền sớm có kế hoạch để không tuyển sinh lớp BC vào trường công."
Từ các cơ sở pháp lý nêu trên đã có thể nhận định : Lớp BC trong trường công đang tồn tại và danh xưng chưa rạch ròi, là loại hình không thể tồn tại lâu dài. Gọi đó là "giải pháp tình thế" chẳng qua là một cách dùng từ để tạm thoát những ràng buộc pháp lý.
Ngoài việc giải quyết vấn đề lớp BC trong trường công, chúng tôi cũng chú ý đến chỉ tiêu tăng tỉ lệ HS trong độ tuổi vào THPT từ 38% năm 2000 lên 50% vào năm 2010 và chủ trương dạy 2 buổi ngày được nêu trong chiến lược phát triển GD 2001 - 2010. Thành phố cũng đã có bước chuẩn bị với dự kiến thực hiện chỉ tiêu 15% trường THPT dạy hai buổi ngày vào năm 2005.
Tóm lại, có thể khẳng định trong tương lai khi thực hiện đúng chủ trương phân biệt rõ loại hình trường, hệ thống trường BC chắc chắn sẽ phát triển về mặt số lượng do tỉ lệ HS BC bậc THPT hiện nay khoảng 45% tổng số HS.
3.1.2.2. Dự báo về tình hình GV và Đgiá GV trường BC
Theo qui chế tổ chức và hoạt động hệ thống trường ngoài công lập [26], cơ cấu CB
- GV trường BC chỉ cần HTrưởng thuộc biên chế Nhà nước, GV cơ hữu (không yêu cầu có biên chế nhà nước) phải đạt tỉ lệ không dưới 40% và số GV còn lại thuộc diện thỉnh giảng. Kinh nghiệm hoạt động của các trường BC thời gian qua đã khẳng định rằng số cơ hữu càng nhiều (với biên chế đủ số cần thiết) thì càng thuận lợi ương hoạt động bởi lực lượng thỉnh giảng còn phải gánh vác nhiều công việc tại đơn vị công lập khó có thời gian tham gia công tác khác ngoài giờ dạy đã nhận tại trường BC. Thông thường số GV thỉnh giảng được chọn mời từ những GV khá - giỏi và có khả năng đáp ứng yêu cầu giảng dạy
cho đối tượng HS BC từ các trường công lập nên việc Đgiá đội ngũ này không thành vấn đề lớn, do đó nội dung tập trung là ở chỗ làm thế nào cổ được đội ngũ cơ hữu chất lượng cao vừa đáp ứng yêu cầu giảng dạy vừa tham gia tốt việc tổ chức hoạt động khác trong nhà trường. Việc HTrưởng Đgiá đúng chất lượng từng GV của lực lượng cơ hữu để định hướng sử dụng trở thành việc then chốt nhằm giải quyết vấn đề chất lượng dạy và học trong điều kiện đầu vào của HS đa phần yếu kém đồng thời phát huy cao nhất tác dụng của các hoạt động ngoài giảng dạy cần có của nhà trường trong việc hình thành nhân cách của HS theo mục tiêu GD.
3.2. Các giải pháp vươn đến sự hoàn thiện việc Đgiá thực hiện nhiệm vu GV.
Các điều kiện thuận lợi để đưa ra các giải pháp đề nghị:
* Yêu cầu cấp bách phải đưa chất lượng giáo dục trường BC theo kịp các trường công. Điều kiện cơ bản để thực hiện nhiệm vụ này chính là chất lượng đội ngũ GV.
* Điều kiện làm việc của GV ngày càng được cải thiện, yêu cầu đối với GV trong nhiệm vụ cao hơn và khả năng cống hiến của GV cũng nhiều hơn.
* Trình độ năng lực quản lý của HTrưởng được nâng cao thông qua việc bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý và học tập nâng cao trình độ.
* Cơ sở kỹ thuật, phương tiện công nghệ thông tin góp phần giúp người HTrưởng có điều kiện thực hiện việc Đgiá dễ dàng hơn, chính xác hơn.
* Ngành GD ngày càng có thêm những văn bản qui định rõ ràng trách nhiệm của
HTrưởng trong việc Đgiá và của GV trong nhiệm vụ giáo dục học sinh.
3.2.1. Tiêu chuẩn Đgiá.
3.2.1.1. Giải pháp cho tiêu chuẩn Đgiá giờ dạy.
Chuẩn Đgiá giờ dạy đã được qui định bằng văn bản pháp qui của Bộ, chúng tôi chỉ quan tâm tìm hiểu những vấn đề chưa phù hợp nhiều với khu vực trường BC và đề xuất những vận dụng. Qua nội dung đã trình bày (mục 2.3.2.1) kết hợp với bảng tổng hợp ý kiến về việc Đgiá giờ dạy (bảng 8):
HT & Ph | T | TT& GV | ||||
A | B | c | A | B | c | |
1. Chính xác khoa học (cả khoa học bộ môn & quan điểm tư tưởng) | 75.00 | 25.00 | 0.00 | 91.89 | 8.11 | 0.00 |
2. Bảo đảm tính hệ thống, đủ nội dung, rõ trọng tâm | 80.00 | 20.00 | 0.00 | 66.67 | 33.33 | 0.00 |
3. Liên hệ thực tế (nếu có), có tính GO | 15,00 | 35.00 | 50.00 | 5.71 | 45.71 | 48.57 |
4. Phương pháp phù hợp bộ môn, kiểu bài | 75.00 | 25.00 | 0.00 | 78.08 | 21.92 | 0.00 |
5. Kết hợp tốt các phương pháp trong các hoạt động dạy và học | 21.05 | 68.42 | 10.53 | 37.68 | 55.07 | 7.25 |
6. Sử dụng phương tiện thiết bị dạy học phù hợp nội dung kiểu bài lên lớp. | 40.00 | 55.00 | 5.00 | 28.38 | 64.86 | 6.76 |
7. Trình bày bảng hợp lý, chữ viết, hình vẽ, lời nói chuẩn mực, giáo án hợp lý | 21.05 | 73.68 | 5.26 | 41.10 | 58.90 | 0.00 |
8. Thực hiện linh hoạt khâu lên lớp, thời gian hợp lý | 35.29 | 47.06 | 17.65 | 41.89 | 47.30 | 10.81 |
9. Tổ chức và điểu khiển HS học tập tích cực phù hợp nội dung kiểu bài, và các đối tượng; HS hứng thú học | 57.89 | 31.58 | 10.53 | 66.67 | 30.56 | 2.78 |
10. Đa số HS hiểu bài, nắm vững trọng tẩm, biết vận dụng kiến thức | 52.63 | 47.37 | 0.00 | 55.41 | 35.14 | 9.46 |
Có thể bạn quan tâm!
- Xây Dưng Phiếu Hỏi Ý Kiến Htrưởng. Phổ Htrưởng. Gv.
- Về Các Yếu Tố Liên Quan Đến Việc Thực Hiện Nhiệm Vụ Của Gv.
- Các Giai Đoạn Của Tiến Trình Đgiá Hiện Hành.
- Giải Pháp Về Tiêu Chuẩn Đgiá Việc Thực Hiện Nhiệm Vụ Của Gv.
- Đối Với Sở Giáo Dục Và Đào Tạo Tp. Hồ Chí Minh.
- Qui Chế Đánh Giá Xếp Loại Giáo Viên Tiểu Học - Ban Hành Theo Quyết Định 48/2000/qđ-Bgdđt Ngày 13/11/2000.
Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.
Bảng 8: Tổng hợp ý kiến về việc Đgiá giờ dạy
(Vui lòng xem nội dung thể hiện của A,B,C trong phiếu điều tra)
Xin kiến nghị những giải pháp như sau:
• Về nội dung các tiêu chí:
- Tiêu chí phải sử dụng và kết hợp tốt phương tiện thiết bị - chỉ yêu cầu thực hiện
trong điều kiện có thể để phục vụ giờ dạy là đạt điểm tối đa.
- Nên thống nhất thêm về yêu cầu phải liên hệ thực tế trong bài dạy; tuỳ nội dung tiết dạy mà đặt mức độ yêu cầu - Lưu ý đánh giá tính giáo dục trong giờ dạy theo quan điểm vừa dạy chữ, vừa dạy người.
- Việc phân bổ thời gian hợp lý cũng cần được cân nhắc do đối tượng HS BC chất lượng học tập không cao, tuỳ theo nội dung GV đã dự kiến (tất nhiên là phải hợp lý) trong giáo án mà thực hiện Đgiá, không nên máy móc áp dụng theo đúng phân phối chương trình.
• Về việc phân bổ điểm cho các nội dung: không nên phân bổ đều, phải dành điểm cao hoặc hệ số cao cho tiêu chí quan trọng quyết định đến chất lượng giờ dạy - theo ý kiến khảo sát đó các tiêu chí 1,2,4, 9, 10. Có thể dùng một trong các cách: (sẽ phải thay đổi cách xếp loại theo cách chọn)