Quy Trình Và Phương Pháp Phân Tích Dữ Liệu Định Lượng


Nhân tố

Tiêu chí

Ký hiệu

Nguồn


Tính chuyên ngành của KTV

EXP3

Kế thừa

Makkawi và Mohammad Abdolmohammadi

Cấp độ

EXP4

Kế thừa

Năng lực nhân sự kiểm toán của DNKT

Số lượng giờ làm thêm

của KTV

AC1

Phát triển mới

Số lượng khách hàng

trong một kỳ kiểm toán

AC2

Kế thừa

Ashton, Dyer & McHugh,

Số lượng nhân viên

trong DNKT

AC3

Kế thừa

Ashton

Áp lực từ phía BLĐ

DNKT

AC4

Phát triển mới

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 216 trang tài liệu này.

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thời gian kiểm toán báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán độc lập thực hiện tại Việt Nam - 11

Nguồn: NCS tự tổng hợp

Biến kiểm soát: trong thực tế sẽ còn phát sinh nhiều nhân tố tác động hơn nữa, ngoài các biến phụ thuộc ở trên đã đề cập, có thể còn có sự tác động của một số biến kiểm soát, bao gồm: giới tính, giá phí kiểm toán,...

3.3.2 Nguồn dữ liệu của luận án

Do đặc điểm của các quy định về công bố thông tin liên quan đến cuộc kiểm toán hiện nay tại Việt Nam chưa bắt buộc các công ty kiểm toán phải công bố số giờ kiểm toán thực tế và theo kế hoạch cho các khách hàng, và đây cũng là một số liệu mang tính nhạy cảm có ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của các hãng, nên NCS không thể thu thập và quan sát số liệu trực tiếp từ các công bố. Do đó, thông qua phỏng vấn sâu các nhân sự cao cấp từ một số hãng kiểm toán (từ CNKT, director và TVBGĐ), NCS đánh giá, phân tích và đưa ra một số giả định và thiết kế câu hỏi khảo sát. Trước khi công bố chính thức câu hỏi khảo sát, NCS đã phỏng vấn thử và chỉnh sửa lại bảng hỏi cho phù hợp hơn với nội dung đề tài và thực tiễn áp dụng của KTV.

Vì vậy, nguồn dữ liệu được sử dụng trong luận án khi thực hiện nghiên cứu định lượng là các thông tin thu trực tiếp qua email, các phương tiện truyền thông từ các phiếu khảo sát đã được làm sạch và loại bỏ những phiếu không đầy đủ hoặc không đáp ứng được yêu cầu của nghiên cứu.

3.3.3 Đối tượng và quy mô mẫu khảo sát

Thời gian kiểm toán thường chủ yếu liên quan đến quy trình kiểm toán trong nội


bộ của công ty kiểm toán, tuy nhiên đây cũng là một yếu tố làm căn cứ mà các hiệp hội nghề nghiệp kế toán kiểm toán của các quốc gia sử dụng khi đánh giá chất lượng kiểm toán của các hãng, và cũng không ngoại lệ đối với Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA). Việc quyết định phân bổ thời gian kiểm toán trong các cuộc kiểm toán thường được thực hiện bởi các KTV cấp cao, từ CNKT trở lên, tuy nhiên các trưởng nhóm kiểm toán (senior – KTV cao cấp) là những người trực tiếp thực hiện cuộc kiểm toán trong giai đoạn thực hiện kiểm toán và các thủ tục sau kiểm toán, thực hiện điều phối và kiểm soát công việc của các nhân viên kiểm toán cấp dưới. Bên cạnh đó, ý kiến của các chuyên gia, những nhà nghiên cứu cũng có ý nghĩa trong việc phân tích. Do đó, đối tượng khảo sát được xác định trong nghiên cứu định lượng của luận án chủ yếu là các KTV từ vị trí trưởng nhóm kiểm toán trở lên, chủ nhiệm kiểm toán (CNKT) và thành viên ban giám đốc phụ trách cuộc kiểm toán, các TVBGĐ phụ trách chất lượng kiểm toán tại các DNKT và các chuyên gia thuộc các hiệp hội nghề nghiệp của Việt Nam và quốc tế, các giảng viên giảng dạy kế toán – kiểm toán, đặc biệt nghiên cứu về kiểm toán tại các trường đại học. Do đặc thù của nghề nghiệp kiểm toán, loại hình DNKT có vai trò tác động nhiều đến việc tổ chức, sắp xếp cuộc kiểm toán, vì vậy luận án đã khảo sát thành 3 đối tượng chủ yếu là các hãng kiểm toán quốc tế thuộc bốn hãng kiểm toán lớn nhất thế giới và Việt Nam, nhóm thứ 2 là các DNKT được chấp thuận kiểm toán các công ty niêm yết theo quy định của Ủy ban chứng khoán, và các DNKT địa phương với quy mô nhỏ hơn (hoàn toàn của Việt Nam, được thành lập và hoạt động chỉ ở Việt Nam) để tăng tính đồng nhất cho các nhóm đối tượng.

Về quy mô mẫu, luận án đã cố gắng xác định quy mô mẫu phù hợp để đảm bảo tính đại diện, có thể suy rộng cho tổng thể và kết quả có giá trị khoa học. Luận án đã dựa trên các yếu tố sau đây để đảm bảo những yêu cầu thống kê cơ bản về độ tin cậy cần thiết trong dữ liệu nghiên cứu như mức độ chắc chắn đảm bảo những đặc điểm thông tin mà dữ liệu thu được từ mẫu nghiên cứu đại diện cho tổng thể; sai số chọn mẫu có thể chấp nhận được; quy mô của tổng thể mà mẫu được chọn phù hợp với loại nghiên cứu, phân tích dự kiến. “Trong thống kê, độ tin cậy thông thường được sử dụng là 95%. Độ tin cậy 95% có nghĩa là trong 100 lần tiến hành chọn mẫu thì có 95 lần những kết quả về đặc điểm, thông tin từ mẫu nghiên cứu phản ánh chính xcs đặc điểm, thông tin cho tổng thể. Nếu nhóm nghiên cứu lựa chọn độ tin cậy nhỏ hơn, chẳng hạn 90% thì quy mô mẫu lựa chọn có thể nhỏ hơn và nếu lựa chọn độ tin cậy là 99% thì quy mô mẫu cần thiết sẽ lớn hơn. Sai số chọn mẫu là sự khác biệt trung bình của mẫu và giá trị thực của tổng thể. Đối với hầu hết các nghiên cứu trong kinh tế, kinh doanh và quản lý, các nhà nghiên cứu đều hài lòng với sai số chọn mẫu là +/- 3% cho đến 5%.” (Nguyễn Thị Tuyết


Mai & Nguyễn Vũ Hùng, 2015). Một vấn đề nữa xảy ra trong quá trình thu thập các mẫu là tỷ lệ phản hồi, việc thu thập thông tin có thể sẽ khó khăn vì các đối tượng trong mẫu có thể từ chối hợp tác tham gia khảo sát, hoặc không đủ điều kiện tham gia, hoặc NCS không thể tiếp cận được đối tượng trong mẫu đã chọn. Tỷ lệ phản hồi này cũng ảnh tới quá trình xác định quy mô mẫu nghiên cứu. Vì vậy, để đảm bảo ý nghĩa thống kê và kiểm định, NCS đã gửi phiếu khảo sát đến các Hiệp hội nghề nghiệp, các DNKT và đến các đối tượng trực tiếp tham gia và phụ trách các hợp đồng kiểm toán tại các công ty kiểm toán, các giảng viên, nhà nghiên cứu giàu kinh nghiệm về kiểm toán.

Sau thời gian khoảng 4 tháng (từ tháng 10 năm 2019 đến tháng 1 năm 2020) kể từ khi gửi bảng câu hỏi khảo sát đến các KTV. Trong quá trình khảo sát, bên cạnh các quan sát thu thập từ khảo sát trực tiếp, luận án chủ yếu sử dụng công cụ khảo sát google forms thông qua thư điện tử, số phản hồi thu về là 258 phiếu. Chất lượng phiếu phản hồi thu về rất tích cực, trong đó có 250 phiếu hợp lệ và chỉ có 08 phiếu loại trừ, điều này do có sự lựa chọn đối tượng phù hợp với tổng thể nghiên cứu ngay từ khi gửi phiếu khảo sát. Với số phiếu quan sát thu về là 250, đối chiếu vào hướng dẫn về kinh nghiệm của các nghiên cứu trước đây, với thang đo có 36 biến quan sát, số lượng quan sát 250 có thể chấp nhận được với thủ tục phân tích nhân tố khám phá (với phân tích nhân tố khám phá EFA, theo nghiên cứu của Hair, Anderson, Tatham và Black (1998) tham khảo về kích thước mẫu dự kiến tối thiểu là gấp 5 lần tổng số biến quan sát. Trong nghiên cứu này, có 36 biến quan sát, cỡ mẫu cần đạt tương ứng là 36*5 = 180 quan sát).

3.3.4 Quy trình và phương pháp phân tích dữ liệu định lượng

3.3.4.1 Thiết kế phiếu câu hỏi

Dựa trên câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu, phiếu câu hỏi được thiết kế với vai trò là công cụ để thu thập dữ liệu khảo sát trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu được đặt ra. Về xây dựng và triển khai phiếu câu hỏi khảo sát dựa trên cơ sở kết quả các nhân tố đã được xác định ở bước nghiên cứu định tính, phiếu câu hỏi khảo sát được áp dụng trong luận án bao gồm các nội dung sau:

- Thông tin phục vụ cho việc phân loại và thống kê các đối tượng được khảo sát

- Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tác động đến thời gian kiểm toán BCTC do kiểm toán độc lập thực hiện tại Việt Nam

- Đánh giá chung về thời gian kiểm toán thực tế cho các cuộc kiểm toán do kiểm toán độc lập thực hiện trong kiểm toán BCTC hiện nay ở Việt Nam.

Luận án xây dựng nội dung câu hỏi trong phiếu khảo sát dựa trên việc kết hợp các câu hỏi kế thừa từ nghiên cứu khác trên thế giới nhưng có sự điều chỉnh cho phù


hợp với bối cảnh Việt Nam và tự phát triển câu hỏi cho nghiên cứu của mình trong điều kiện có những khác biệt của Việt Nam. Bởi việc sử dụng có điều chỉnh này đã được phát triển, kiểm chứng về chất lượng và phù hợp với mục tiêu thu thập dữ liệu của Luận án.

Thang đo các biến số trong mô hình nghiên cứu có ý nghĩa vô cùng quan trọng để thiết kế phiếu câu hỏi và thu thập dữ liệu mong muốn và đạt được mục tiêu nghiên cứu. Có nhiều loại thang đo khác nhau, luận án đã cân nhắc sử dụng kết hợp các thang đo sau đây trong luận án:

- Thang đo biểu danh hay định danh (Nominal scale): thang đo này được sử dụng rộng rãi với các tiêu thức thuộc tính mà biểu hiện là một hệ thống các loại khác nhau như: giới tính, khu vực địa lý, loại hình doanh nghiệp,… Thang đo này được sử dụng để đánh gia một số biến thuộc tính như khảo sát các đối tượng thuộc các loại hình doanh nghiệp kiểm toán (nước ngoài – Việt Nam, Big4 – Không phải Big4),…

- Thang đo thứ bậc (ordinal scale): cung cấp thông tin về mối quan hệ thứ bậc cao, thấp giữa các biểu hiện của tiêu thức nhưng không diễn tả được cao hơn hay thấp hơn bao nhiêu. Thang đo này sử dụng cho các biến mà sự khác biệt ở đây phụ thuộc nhiều về xét đoán của KTV, như mức độ ảnh hưởng của sự phức tạp của khách hàng, ảnh hưởng của các yếu tố của KSNB,…đối với thời gian kiểm toán.

- Thang đo khoảng (interval scale): sử dụng để đo thứ bậc có khoảng cách đều nhau nhưng không có điểm gốc là 0. Trong phiếu khảo sát, luận án sử dụng thang đo thứ bậc Likert. Thang đo này được nhà tâm lý học Likert phát minh, được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu khảo sát. Thang Likert là thang đo thứ bậc nhưng trên thực tế được sử dụng như thang đo khoảng. Khi sử dụng thang đo này đối tượng được khảo sát sẽ thể hiện mức độ đồng ý đối với tuyên bố/chỉ báo của biến tiềm ẩn. Thang Likert thường thiết kế với thang điểm từ 1 đến 5 hoặc từ 1 đến 7, 9 hoặc 10. Ví dụ như 1 rât đồng ý, 2 là không đồng ý,….5 là rất đồng ý. Trong nhiều nghiên cứu ở Việt Nam, thang đo Likert được sử dụng rất rộng rãi. Trong Luận án, thang đo Likert được sử dụng để hỏi KTV cho những câu hỏi chứa đựng các biến tiềm ẩn như: tính phức tạp trong hoạt động của khách hàng, kinh nghiệm, mức độ chuyên nghiệp của DNKT và KTV, …

Bên cạnh đó, do Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, nghề nghiệp kiểm toán vẫn còn non trẻ so với các nước trên thế giới, trong phiếu câu hỏi, NCS có đặt thêm một số câu hỏi có liên quan đến các biến kiểm soát để có thể đo lường tốt hơn trong bối cảnh cụ thể của Việt Nam.

Dạng câu hỏi được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm câu hỏi mở (open-ended questions), câu hỏi đóng (closed-ended questions) và câu hỏi có thang đo (scaled- response questions).


Trước khi phát phiếu câu hỏi chính thức, NCS đã khảo sát thử từ 3 đến 5 đối tượng để trả lời cho phiếu khảo sát nháp để xem xét mức độ phù hợp với mục tiêu nghiên cứu và thuận tiện cho việc hiểu và trả lời của các đối tượng nghiên cứu.

3.3.4.2 Chọn mẫu khảo sát

Chọn mẫu nghiên cứu phụ thuộc hai yếu tố: tính đại diện và cách thức chọn các phân tử hình thành mẫu nghiên cứu. Nếu theo yếu tố đại diện, có mẫu ngẫu nhiên và mẫu phi ngẫu nhiên. Mẫu ngẫu nhiên là mẫu nghiên cứu được hình thành từ tổng thể với các phần tử có xác suất được chọn là tương đương nhau, mẫu ngẫu nhiên giúp loại bỏ được sai số do lựa chọn hoặc những ý kiến chủ quan gây ra, từ đó đảm bảo được các nguyên tắc thông kê trong chọn mẫu và suy rộng kết quả của tổng thể. Mẫu phi thống kê là mẫu nghiên cứu được hình thành từ các phân tử trong tổng thể có xác suất được lựa chọn là khau nhau hay các phần tử tham gia vào mẫu không tuân theo quy luật ngẫu nhiên. Dạng mẫu này tuy không giúp cho việc suy rộng từ tổng thể nhưng có thể góp phần trong việc làm tăng thêm sức mạnh hoặc cơ sở của các nhận định, đánh giá. Mẫu này thường được lựa chọn trong nghiên cứu khám phá. Luận án sử dụng chủ yếu phương pháp chọn mẫu xác suất/ngẫu nhiên để ước lượng được mô hình hồi quy. Trong chọn mẫu ngẫu nhiên, luận án chọn mẫu đơn giản kết hợp với chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng. Cách chọn mẫu này giúp cho tính đại diện cao hơn vì các tầng/nhóm đều có đại diện theo tỷ lệ trong mẫu nghiên cứu.

3.3.4.3 Thu thập dữ liệu khảo sát

Luận án kết hợp cả ba phương thức thu thập dữ liệu khảo sát (qua phỏng vấn trực tiếp, thu thập dữ liệu qua gọi điện thoại và thu thập dữ liệu qua mạng internet) trong các điều kiện thích hợp. Phỏng vấn trực tiếp có ưu điểm chủ yếu là giảm thiểu được sai số đo lường từ phía người được hỏi, vì có thể kiểm tra ngay trong trường hợp có nghi vấn về thông tin hoặc sẽ giải thích được rõ hơn những vấn đề mà tác giả có quan tâm sâu hơn. Tuy nhiên, phương thức này gây một số khó khăn về không gian, thời gian và chi phí. Vì không phải người được phỏng vấn nào cũng sắp xếp được thời gian để trả lời các câu hỏi và có thể còn tồn tại sai số do phỏng vấn gây ra. Phỏng vấn qua điện thoại có ưu điểm thuận tiện về mặt thời gian, kết quả thu về nhanh chóng và có khả năng tập trung hóa vào các vấn đề trọng tâm, tuy nhiên phương thức này vẫn tồn tại một số nhược điểm như sai số từ chọn mẫu, hoặc đối tượng được phỏng vấn không phản hồi, không nghe máy. Phương thức thứ ba là thu thập dữ liệu qua mạng internet là phương thức được sử dụng phổ biến hiện nay do những ưu việt của nó. Trong phương thức này, luận án thiết kế sẵn và đăng tải các phiếu câu hỏi trên phần mềm trực tuyến hoặc qua thư điện


tử (email) để đối tượng được khảo sát trả lời. Phương thức này được dùng phổ biến nhất hiện nay do sự phát triển về công nghệ thông tin, giúp luận án có thể triển khai khảo sát trên diện rộng mà không gặp vấn đề quá lớn về khoảng cách địa lý các vùng miền. Với chi phí thấp nhất trong các loại phương thức thu thập dữ liệu khảo sát; thường không có các sai số về nhập dữ liệu và người được khảo sát có thể lựa chọn thời gian, địa điểm trả lời phù hợp nhất theo điều kiện môi trường, phương thức này giúp cho luận án dễ dàng khảo sát đảm bảo số lượng mẫu như kỳ vọng. Vì vậy, luận án chủ yếu sử dụng phương thức này để thu thập dữ liệu và sử dụng phần mềm khảo sát trên mạng internet. Như đã trình bày ở trên, luận án sử dụng công cụ khảo sát qua google forms.

3.3.4.4 Xử lý dữ liệu thô

Việc phân loại dữ liệu thô được tiến hành ngay sau khi thu thập dữ liệu hoàn tất. Các phiếu hỏi được kiểm tra về tính hợp lệ và làm sạch dữ liệu. Sau khi làm sạch dữ liệu, luận án đã mã hóa phiếu hỏi để số hóa phần trả lời của mỗi câu hỏi và nhập liệu vào phần mềm Microsoft Excel và đưa vào phân tích bằng phần mềm SPSS.

3.3.4.5 Kiểm định chất lượng thang đo

Luận án sử dụng hệ số Cronbach’s Alpha để đánh giá chất lượng thang đo. Đây là bước đầu tiên khi thực hiện phân tích định lượng với SPSS. Theo Nunnally và Bernstein (1994) cho rằng thang đo được đánh giá chất lượng tốt khi Hệ số Cronbach’s Alpha của tổng thể lớn hơn 0,6 và hệ số tương quan biến – tổng của các biến quan sát lớn hơn 0,3 (Corrected Item – Total Corelation).

3.3.4.6 Phân tích nhân tố khám phá

Thông qua quá trình nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa các biến quan sát cho từng nhân tố cho thấy rằng các biến quan sát này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, do đó đề tài cần phải sử dụng kỹ thuật phân tích nhân tố EFA bằng phương pháp thành phần chính nhằm tóm tắt những yếu tố tác động chính yếu trong mỗi một nhân tố. Các kiểm định Bartlett và kiểm định KMO (Kaiser-Mayer-Olkin) lần lượt được thực hiện nhằm mục đích kiểm định tính phù hợp của dữ liệu nghiên cứu với việc phân tích mô hình EFA bằng phương pháp thành phần chính. KMO là một chỉ tiêu dùng để xem xét sự thích hợp của EFA, 0.5 ≤ KMO ≤ 1 thì phân tích nhân tố là thích hợp (Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008). Kiểm định Bartlett có ý nghĩa thống kê (Sig.

≤ 0,05) chứng tỏ các biến quan sát có mối tương quan với nhau trong tổng thể.

Trên cơ sở kết quả phân tích EFA, các nhân tố chính được khám phá và được mã hóa theo các biến độc lập hoặc phụ thuộc. Để ước lượng mức độ tương quan của các


nhân tố đến thời gian kiểm toán, Luận án sử dụng mô hình phân tích hồi quy bội để tính toán tham số của các nhân tố được sử dụng trong mô hình.

3.3.4.7 Kiểm định mô hình hồi quy

Để đảm bảo độ tin cậy và hiệu quả của mô hình, năm kiểm định chính được thực hiện như sau:

- Kiểm định tương quan từng phần của các hệ số hồi quy: mục tiêu của kiểm định này để xem xét biến độc lập tương quan có ý nghĩa với biến phụ thuộc hay không xét riêng từng biến độc lập. Nếu mức ý nghĩa (Significance, Sig.) của hệ số hồi quy từng phần có độ tin cậy là 95% trở lên (Sig. ≤ 0,05) có nghĩa kết luận tương quan giữa biến độc lập và biến phụ thuộc có ý nghĩa thống kê (Nguyễn Đình Thọ, 2013; Đinh Phi Hổ, 2014).

- Kiểm định mức độ phù hợp của mô hình: kiểm định này xem xét mối quan hệ tuyến tính giữa các biến độc lập với biến phụ thuộc. Mô hình được xem là không phù hợp khi tất cả các hệ số hồi quy đều bằng không và phù hợp khi có ít nhất một hệ số hồi quy khác không.

Phân tích phương sai (Analysis of Variance – ANOVA) được sử dụng để kiểm định mức độ phù hợp của mô hình. Nếu mức ý nghĩa đảm bảo có độ tin cậy ít nhất 95% (Sig. ≤ 0,05) mô hình được xem là phù hợp.

- Kiểm định hiện tượng đa cộng tuyến: đây là hiện tượng mà các biến độc lập có quan hệ gần như tuyến tính. Việc bỏ qua hiện tượng đa cộng tuyến làm các sai số chuẩn thường cao hơn, giá trị thống kê thấp hơn và có thể không có ý nghĩa. Để kiểm tra hiện tượng này, Luận án sử dụng thước đo độ phóng đại phương sai (Variance Inflactor Factor – VIF) để kiểm định hiện tượng tương quan giữa các biến độc lập. Nếu VIF < 10 sẽ không có hiện tượng đa cộng tuyến.

- Kiểm định hiện tượng tự tương quan: trị số thống kê Durbin-Watson được sử dụng để kiểm tra xem xét có hiện tượng tự tương quan không trong phần dư (Residuals) của mô hình hồi quy được đề xuất. Mô hình được kết luận không có hiện tượng tự tương quan khi thỏa mãn điều kiện dU < d < 4 –dL. Trong đó, dU là Trị số thống kê trên và dL là Trị số thống kê dưới (Nguyễn Đình Thọ, 2013 và Đinh Phi Hổ, 2014).


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Chương 3 trình bày cụ thể phương pháp nghiên cứu được sử dụng để đạt mục tiêu nghiên cứu cho Luận án. Như đã đề cập ở Chương 1, mục tiêu nghiên cứu của Luận án là khám phá, đánh giá và đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến thời gian kiểm toán BCTC do các DNKT độc lập thực hiện tại Việt Nam, do đó Luận án kết hợp tuần tự hai giai đoạn là giai đoạn nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng để kiểm định kết quả nghiên cứu định tính. Giai đoạn nghiên cứu định tính được thực hiện theo phương pháp lý thuyết nền dựa trên phân tích kết quả phỏng vấn sâu các chuyên gia nhằm khám phá thêm các nhân tố có ảnh hưởng đến thời gian kiểm toán. Kết quả nghiên cứu định tính được sử dụng làm cơ sở xây dựng thang đo trong giai đoạn nghiên cứu định lượng với mục đích đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố. Các thủ tục kiểm định độ tin cậy của thang đo, phân tích nhân tố khám phá và phân tích hồi quy đa biến là những thủ tục phân tích chính được sử dụng trong giai đoạn nghiên cứu định lượng.

Xem tất cả 216 trang.

Ngày đăng: 24/01/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí