Tạo cho được sự chuyến biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm của các ngành, các cấp đối với phát triển du lịch. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về dịch vụ du lịch và đội ngũ cán bộ quản lý các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh du lịch. Nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ lao động phục vụ của ngành; phấn đấu đến năm 2005 thu hút thêm 5000 lao động vào lĩnh vực này.
2.2.1.2 Chiến lược marketing du lịch của giai đoạn 2000 – 2005
Với mục tiêu cụ thể phát triển du lịch cho giai đoạn 2000 – 2005, Đà Lạt – Lâm Đồng đã đề ra những nhiệm vụ và giải pháp để hoàn thành mục tiêu: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, bảo vệ cảnh quan, môi trường sinh thái phục vụ du lịch; tăng cường công tác quản lý nhà nước, củng cố kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ trên lĩnh vực dịch vụ du lịch; xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm khai thác tối đa các nguồn lực để phát triển du lịch, đồng thời cũng đề ra những mục tiêu cho các hoạt động marketing cho giai đoạn này là:
- Nâng cao chất lượng các dịch vụ và sản phẩm du lịch hiện có, phát triển mạnh các sản phẩm du lịch mới.
- Tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến giới thiệu tiềm năng du lịch với nhiều thị trường trong và ngoài nước.
- Tổ chức các hội chợ triển lãm du lịch thương mại cho các doanh nghiệp tham gia giao lưu học hỏi lẫn nhau, giới thiệu sản phẩm của doanh nghiệp cũng như quảng bá hình ảnh du lịch Đà Lạt đến với bè bạn trong nước và quốc tế.
- Tổ chức các sự kiện văn hoá lớn (Đà Lạt, thành phố hoa, điểm hẹn năm 2000; Đà Lạt – 110 năm hình thành và phát triển năm 2003; Lễ hội hoa Đà Lạt năm 2004, Festival hoa Đà Lạt năm 2005) thu hút sự chú ý của các phương tiện thông tin đại chúng, sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và
ngoài nước với tiềm năng phát triển du lịch của Đà Lạt để từ đó kích thích hơn nữa sự tăng trưởng của du lịch Đà Lạt – Lâm Đồng.
2.2.2. Tình hình thực hiện các chính sách trong chiến lược marketing du lịch
Có thể bạn quan tâm!
- Nhân Tố Con Người - Một Tiềm Năng Lớn Trong Hoạt Động Du Lịch Ở Đà Lạt
- Thị Trường Khách Du Lịch Của Đà Lạt - Lâm Đồng Trong Thời Gian Qua
- Thực Trạng Và Số Liệu Dự Báo Về Nguồn Nhân Lực Du Lịch
- Đánh Giá Hoạt Động Marketing Du Lịch Của Thành Phố Đà Lạt
- Những Cơ Hội Và Thách Thức Đối Với Sự Phát Triển Du Lịch Của Thành Phố Đà Lạt
- Một Số Giải Pháp Chủ Yếu Nhằm Đẩy Mạnh Hoạt Động Marketing Du Lịch Đà Lạt
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
Một điều dễ nhận thấy rằng, nhận thức của cơ quan quản lý du lịch địa phương về chiến lược marketing du lịch là chưa đầy đủ. Hoạt động marketing du lịch diễn ra chủ yếu là các hoạt động giới thiệu, quảng bá, quảng cáo về sản phẩm du lịch, cho đến gần đây mới có các chương trình tổ chức mang tính chất sự kiện để quảng bá hình ảnh du lịch Đà Lạt. Cụ thể như sự kiện tổ chức lễ kỷ niệm “Đà Lạt 110 năm hình thành và phát triển” năm 2003, “Lễ hội hoa” năm 2004 và “Festival hoa Đà Lạt” năm 2005. Nhìn chung các sự kiện đã để lại những ấn tượng nhất định về hình ảnh thành phố hoa Đà Lạt.
Tuy nhiên, như đã nói hoạt động marketing chưa có sự phối kết hợp các chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối và chính sách xúc tiến quảng bá thành một kế hoạch marketing mang tính chiến lược.
2.2.2.1. Phân tích thực trạng sản phẩm du lịch của Đà Lạt
Đà Lạt từng được mệnh danh là “tiểu Pari”, được các nhà khí hậu học gọi là “thành phố của mùa xuân”, và cái tên “thành phố hoa” đã quen thuộc với nhiều người. Một ngày bốn mùa xuân, hạ, thu, đông làm cho cảnh vật luôn tươi mới, thời tiết mát lành nhiệt độ chỉ dao động từ 16 – 240C. Cảnh quan thiên nhiên và môi trường hết sức lý tưởng, ít nơi nào có được: núi đồi, rừng thông, thác nước - một cảnh trí thiên nhiên sống động và ngoạn mục xen lẫn các ngôi biệt thự cổ kính khiến lòng du khách như được trút bỏ những lo toan thường nhật, chìm vào cảm giác dễ chịu, thanh thản. Hình ảnh từng tốp du khách trên xe đạp đôi đi dạo quanh bờ hồ Xuân Hương, qua những con dốc
đã trở thành quen thuộc với thành phố du lịch có nhiều con dốc nhất, điều này thật hiếm ở các thành phố khác.
Sản phẩm du lịch của Đà Lạt đã từng bước được đa dạng hoá, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh. Nhiều sản phẩm du lịch được đưa vào khai thác như các tuyến du lịch sinh thái, du lịch văn hoá tại các buôn làng dân tộc ít người, một số sản phẩm du lịch có giá trị độc đáo với vai trò liên vùng như “Con đường xanh Tây Nguyên” cũng bắt đầu được phối hợp triển khai. Hệ thống cáp treo được đưa vào sử dụng từ đầu năm 2002 với chiều dài 2.300m, trở thành một trong hoạt động rất hấp dẫn du khách. Các sản phẩm cao cấp như sân golf, nghỉ mát… được nghiên cứu phát triển đã tăng sức thu hút khách du lịch, thúc đẩy sự hấp dẫn của du lịch Đà Lạt. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ do bàn tay con người làm nên như tranh thêu, Festival Hoa Đà Lạt thực sự có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động du lịch Đà Lạt.
Tuy nhiên, sản phẩm du lịch của Đà Lạt mới chỉ chú trọng khai thác thiên nhiên, thiếu nhạy bén trong đa dạng hoá sản phẩm phục vụ du lịch. Các điểm tham quan chủ yếu dựa vào cảnh quan thiên nhiên, vì lẽ đó nên môi trường cảnh quan hiện đang xuống cấp nghiêm trọng. Thành phố mất dần những mảng xanh, những cánh rừng thông, những thảm hoa dại tự nhiên đầy thơ mộng. Môi trường, cảnh quan thiên nhiên – sản phẩm chính của du lịch đang ngày càng bị mai một, bị huỷ hoại.
Trong tham luận “Suy nghĩ về sản phẩm du lịch của Đà Lạt”, tác giả Lê Kim Ngữ nêu: “…Thiên nhiên Đà Lạt đã và đang bị huỷ hoại nghiêm trọng và chức năng du lịch nghỉ dưỡng của Đà Lạt sẽ dần dần bị mất đi… sản phẩm còn quá đơn điệu, lại bị khai thác quá mức. Từ đó mà các thắng cảnh ngày càng xấu hơn, nghèo nàn đi và thậm chí vô hồn… nếu Đà Lạt không có những biện pháp kịp thời thì thành phố Đà Lạt xinh đẹp, mộng mơ sẽ chỉ còn là một kỷ niệm…”.
Với cái nhìn của những nhà kinh doanh, những nhà tổ chức du lịch, trong hầu hết các bài báo viết về sản phẩm du lịch Đà Lạt, vấn đề sản phẩm du lịch được nhiều người quan tâm và cho rằng sản phẩm du lịch Đà Lạt vẫn còn đơn điệu, chưa có tính hấp dẫn. Đà Lạt rất đẹp, rất thơ nhưng cũng rất buồn, rất tĩnh lặng và dường như ít thay đổi trong một thế giới năng động. Đây là một ưu thế, cũng là một điểm yếu của Đà Lạt. Đến Đà Lạt lần thứ ba sẽ không còn gì để khám phá. Đà Lạt vẫn còn thiếu một cái gì đó để buộc người ta không ngần ngại chi tiêu, không tiếc quĩ thời gian và tài chính.
Trong đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu cơ chế quản lý và đa dạng hoá sản phẩm du lịch Đà Lạt – Lâm Đồng”, tác giả Trương Trổ cho rằng “Trong xã hội công nghiệp hiện nay, tìm được một nơi yên tĩnh, mát mẻ như Đà Lạt quả là hiếm. Thế nhưng chúng ta mới chỉ phục vụ được một khâu cho du khách là nghỉ ngơi, còn phần nghỉ dưỡng cho đến nay vẫn còn bị bỏ ngỏ”.
Có thể nói thiếu tính đa dạng, phong phú là một thực trạng của sản phẩm du lịch Đà Lạt hiện nay. Các sản phẩm du lịch chủ yếu phục vụ nhu cầu cơ bản của du khách như ăn ở, đi lại; tập trung khai thác những gì có sẵn của thiên nhiên mà lại không có sự tôn tạo, sáng tạo trong việc phối hợp, sắp xếp theo những chủ đề nổi bật. Một yếu điểm của hệ thống dịch vụ phục vụ du lịch của Đà Lạt là thiếu hẳn một hệ thống chăm sóc y tế chất lượng cao có thể phục vụ du khách trong và ngoài nước.
Sản phẩm du lịch Đà Lạt chưa có ý tưởng chủ đạo: các sản phẩm được tạo nên một cách tự phát không theo một qui hoạch cơ bản. Do đó sẽ làm môi trường bị tàn phá nặng nề vì không ai cảm thấy có trách nhiệm bảo tồn, và bảo tồn cái gì? Khi đã có một qui hoạch cơ bản thì những sản phẩm du lịch được xây dựng sẽ xoay quanh một ý tưởng cốt lõi, một triết lý cho du lịch Đà Lạt.
Do bị áp lực về tăng nhanh lượng khách để tăng doanh thu trong khi chưa có một qui hoạch phù hợp, hầu như mọi điểm du lịch đều bị xuống cấp và biến dạng. Các công trình xây dựng vô nghĩa, ô nhiễm môi trường vì khói bụi, vì rác thải… đã làm cho Đà Lạt đang biến dần thành một thành phố khác đi: xây dựng nhiều hơn, nóng bức hơn, ồn ào hơn, ô nhiễm hơn.
Với những gì thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho Đà Lạt thì ngành Du lịch phải đem về một nguồn lợi rất to lớn cho người dân địa phương. Tuy nhiên, do những sản phẩm cung ứng rời rạc, chắp vá và cạnh tranh không lành mạnh đã làm cho doanh thu từ du lịch chưa tương xứng. Hơn nữa, phần lớn các nguồn thu từ hoạt động du lịch đã không đến với địa phương mà đi vào các công ty ở nước ngoài hoặc ở các địa phương khác. Điều này buộc chúng ta phải suy nghĩ đã đến lúc cần có những công ty du lịch địa phương đủ mạnh để có thể xây dựng, tôn tạo và tổ chức các hoạt động du lịch, tạo ra nhiều sản phẩm cung ứng cho du khách để đem lại nguồn lợi thích đáng cho địa phương.
2.2.2.2. Thực trạng về giá
Giá cả sản phẩm dịch vụ du lịch ở Đà Lạt tương đối cao, điều này có lẽ là tình trạng chung của cả nước. Nhưng giá cao không tương xứng với chất lượng dịch vụ đã làm giảm đi sức hấp dẫn của sản phẩm. Tại sao lại có tình trạng này? Hãy so sánh mức giá với một số nước trong khu vực: khách mua tour đi từ Nhật đến Việt Nam trong khoảng thời gian 4 – 5 ngày sẽ có mức giá từ 1000USD đến 1200 USD, trong khi cũng tour 4 – 5 ngày đến Thái Lan hoặc Singapore chỉ mất khoảng 600 – 700 USD. Khách từ Châu Âu, Bắc Mỹ đến Việt Nam cũng vậy, họ phải mua tour với giá cao hơn so với đến các nước khác trong khu vực.
Sở dĩ giá tour của họ rẻ hơn là vì các công ty, các ngành thuộc lĩnh vực du lịch phối hợp chặt chẽ với nhau để tạo ra một chuỗi các doanh nghiệp du lịch liên hoàn và hỗ trợ nhau. Các điểm tham quan và mua sắm góp phần đáng kể làm giá tour thấp. Các địa điểm này có chính sách tài trợ phương tiện hoặc giảm chi phí vận chuyển cho các công ty tổ chức tour đưa khách đến với họ. Điều này giúp rất nhiều cho các công ty du lịch, họ chịu ít hoặc không mất nhiều chi phí cho hoạt động tổ chức tham quan hoặc mua sắm đối với khách du lịch.
Ở Đà Lạt nói riêng và cả nước nói chung, các công ty du lịch cho rằng, hiện chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước với các công ty hoạt động trong ngành Du lịch, kể cả hàng không, nên chưa phát huy được hết sức mạnh của ngành du lịch. Không chỉ có ở Đà Lạt, nhiều địa phương khác ở nước ta có lợi thế về tiềm năng du lịch tự nhiên với nhiều thắng cảnh thiên nhiên đẹp và ấn tượng, khác hẳn với các nước Thái Lan, Singapore hay Malaysia… chỉ là những cụm du lịch nhân tạo. Nhưng các nước bạn lại có kinh nghiệm tổ chức du lịch và biết kết hợp sức mạnh các đơn vị liên quan để làm nên những điều mà chúng ta chưa làm được. Chúng ta chưa có sự liên kết giữa các dịch vụ vận chuyển, lưu trú, ăn uống, các công ty hoạt động trong lĩnh vực du lịch và các ngành liên quan thì việc tạo lợi thế về giá sẽ khó thực hiện.
Việc giá cả lên xuống vào những thời điểm mùa vụ du lịch và ngoài thời vụ cũng gây không ít phiền toái cho các doanh nghiệp và khách du lịch. Vào thời vụ du lịch, để tránh tình trạng tăng giá bắt chẹt khách, địa phương đã yêu cầu các cơ sở lưu trú niêm yết giá, nhưng vào ngày lễ, tết phòng nghỉ ở Đà Lạt rất căng thẳng, một số khách sạn làm ăn kiểu “chụp giựt” bắt đầu tăng giá. Thậm chí có nơi không nhận đặt phòng trước từ các hãng lữ hành, đợi
khách đi lẻ đến tìm phòng sẽ có dịp “cứa cổ”. Ngược lại vào thời gian thấp điểm thì lại hạ giá quá thấp tạo nên một cuộc cạnh tranh không lành mạnh.
Hiệp hội Du lịch tỉnh Lâm Đồng ra đời năm 2001, nhưng vai trò tương đối mờ nhạt trong việc đưa ra một mức giá chuẩn trong kinh doanh dịch vụ du lịch. Về mặt này có thể học hỏi Hiệp hội Du lịch tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, nghị quyết Bình ổn giá trong kinh doanh dịch vụ du lịch của Hiệp hội vừa được tỉnh phê duyệt với mục đích nhằm khống chế giá dịch vụ du lịch “nhảy loạn” trong những thời gian cao điểm.
2.2.2.3. Hệ thống phân phối sản phẩm du lịch
Nếu như quảng cáo, thông tin phát triển có mục đích nhằm phổ biến một hình ảnh tốt đẹp về sản phẩm du lịch và tạo ra ý muốn đi du lịch thì chính sách phân phối sẽ nhằm mục đích thúc đẩy và tạo điều kiện cho việc mua hàng của khách du lịch. Trong khi quảng cáo chủ yếu hướng vào quảng đại quần chúng, thì phân phối hướng vào những nhà kinh doanh chuyên nghiệp về du lịch. Họ là những người trung gian để nối quan hệ giữa cung và cầu du lịch. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, hầu hết người sản xuất không bán hàng hoá của mình trực tiếp cho người tiêu dùng mà là qua các khâu trung gian, đặc biệt do đặc điểm của sản phẩm du lịch, nhất thiết cần phải có khâu trung gian trong quá trình tiêu thụ sản phẩm.
Những kênh phân phối chính trong du lịch là: đại lý lữ hành, công ty du lịch, khách sạn hoặc đại diện khách sạn, hàng không, dịch vụ đặt phòng tự động và cuối cùng là hệ thống đặt phòng trung tâm. Các sản phẩm, dịch vụ du lịch ở Đà Lạt được bán tới du khách qua các công ty lữ hành, các đại lý du lịch, qua các khách sạn, đại diện khách sạn và hãng hàng không. Hiện trên địa bàn Đà Lạt có 18 đơn vị lữ hành - vận chuyển du lịch trong đó có 3 đơn vị là doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế. Đây là lực lượng chủ yếu để đưa
sản phẩm du lịch đến với khách du lịch trong và ngoài nước. Một số công ty lớn như Công ty Du lịch Lâm Đồng, Công ty Dịch vụ Du lịch Đà Lạt có các chi nhánh tại các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Ngoài ra các công ty du lịch ở các thành phố và địa phương khác cũng là một lực lượng đáng kể đưa khách đến với du lịch Đà Lạt, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh, một trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước nên nhu cầu đi du lịch rất cao. Với Đà Lạt, khí hậu mát mẻ, không khí trong lành bình yên là nơi lý tưởng để nghỉ ngơi sau những ngày làm việc căng thẳng mệt mỏi, hơn nữa cũng chỉ cách TP. Hồ Chí Minh khoảng 300 km nên số lượng khách du lịch chọn Đà Lạt tương đối cao.
Thế nhưng khách du lịch đến Đà Lạt khó tìm thấy ở đây một văn phòng hướng dẫn thông tin giới thiệu du lịch. Nếu như ở Hà Nội, Huế, Hội An, TP. Hồ Chí Minh… khách du lịch có thể dễ dàng được hướng dẫn, tìm hiểu thông tin du lịch vì có các văn phòng thông tin, giới thiệu và hướng dẫn du khách thì ở Đà Lạt du khách chưa có những trợ giúp này. Bởi mới có một văn phòng giới thiệu du lịch nhưng được đặt ở trong Khu du lịch Thác Prenn vừa nhỏ và vừa khuất, tiếp cận khó. Thiết nghĩ đây là một kênh phân phối cũng góp phần không nhỏ giúp du khách tiếp cận được với sản phẩm, đồng thời cũng tạo nên diện mạo phát triển của du lịch Đà Lạt.
2.2.2.4. Hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch
Đây là hoạt động được chú trọng hơn cả trong hoạt động marketing du lịch hiện nay không những ở Đà Lạt mà còn diễn ra trên cả nước. Năm 2000, hưởng ứng chương trình hành động quốc gia về du lịch, mỗi địa phương đều có những hoạt động đẩy mạnh phát triển du lịch, tập trung quảng bá làm nổi bật hình ảnh địa phương, đồng thời giới thiệu những sản phẩm du lịch đặc thù. Và từ năm 2003, du lịch Việt Nam thường xuyên tổ chức các sự kiện