Các Kỹ Năng Đánh Giá Năng Lực Quản Lý Điều Dưỡng:


sung nguồn lực và phát động phong trào thi đua, (4) Giao trách nhiệm cho các trưởng khoa lâm sàng tổ chức thực hiện CSNBTD, xoá bỏ mô hình phân công chăm sóc theo công việc mà thay vào đó là mô hình phân công chăm sóc theo đội hoặc nhóm thay cho chăm sóc theo công việc, và (5) Giao trách nhiệm cho các khoa, đơn vị cận lâm sàng (xét nghiệm, dược, vật tư - trang thiết bị, kiểm soát nhiễm khuẩn, dinh dưỡng) cung cấp dịch vụ tại các khoa lâm sàng để giành thời gian cho người ĐD chăm sóc người bệnh nhiều hơn [13], [24].

Thực hiện quy chế CSNBTD: mỗi người bệnh phải được một Bác sỹ và một ĐD chịu trách nhiệm cụ thể về điều trị và chăm sóc. Mô hình phân công chăm sóc theo nhóm đáp ứng được tiêu chí lấy người bệnh làm trung tâm chăm sóc không chỉ dịch vụ y tế mà còn đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của người bệnh cả về thể chất, tinh thần và xã hội.

Mô hình phân công chăm sóc theo nhóm phù hợp với điều kiện tại Bệnh viện, tất cả các khoa lâm sàng áp dụng mô hình chăm sóc theo nhóm. Trưởng khoa và ĐDTK phân chia số lượng nhóm cho phù hợp với giường bệnh và nhân lực của khoa. Mỗi nhóm chăm sóc bao gồm Bác sỹ, ĐD, Hộ lý:

+ Bác sỹ là người quyết định phương pháp điều trị.

+ Điều dưỡng là người thực hiện các y lệnh điều trị, trực tiếp chăm sóc người bệnh, hướng dẫn Hộ lý, thân nhân phối hợp cùng chăm sóc người bệnh.

+ Hộ lý: phụ Điều dưỡng cùng chăm sóc người bệnh.

Bác sỹ trưởng khoa phân công Bác sỹ điều trị theo buồng hay giường bệnh. ĐDTK phân công ĐDT nhóm. ĐD chăm sóc, Hộ lý theo buồng hay giường bệnh phù hợp với điều kiện thực tế tại khoa. Trong mỗi nhóm ĐDCS do ĐDT nhóm có trình độ tay nghề vững vàng quản lý, chịu trách nhiệm lập kế hoạch chăm sóc cho tất cả các bệnh nhân trong nhóm, hướng dẫn ĐD nhóm thực hiện các hoạt động CSNB. ĐDCS đáp ứng những nhu cầu cơ bản của người bệnh cả về thể chất, tinh thần và xã hội theo phân cấp chăm sóc. Hướng dẫn thân nhân cùng chăm sóc [68].

Quy chế CSNBTD do Bộ Y tế ban hành đã quy định rõ "...không áp dụng hình thức phân công theo công việc" và "mỗi người bệnh phải được một bác sỹ và


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

một y tá (điều dưỡng) chịu trách nhiệm cụ thể về điều trị và chăm sóc toàn diện". Quy chế đã nhấn mạnh vào mô hình phân công chăm sóc và trách nhiệm cụ thể của các cá nhân trong chăm sóc. Quy chế vừa đề cập tới chuyển đổi phương thức phân công chăm sóc từ lấy công việc làm trung tâm sang lấy người bệnh làm trung tâm, vừa mở rộng nội dung chăm sóc không chỉ dịch vụ y tế mà còn đáp ứng những nhu cầu cơ bản của một con người cả về thể chất, tinh thần và xã hội [25].

CSNBTD được coi là giải pháp cơ bản để nâng cao sự hài lòng của người bệnh, cũng như nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và uy tín của bệnh viện. Tại các bệnh viện, công tác này được thực hiện với nhiều mô hình: theo người bệnh, theo công việc, theo nhóm, theo đội... phù hợp điều kiện cụ thể của từng đơn vị.

Thực trạng và hiệu quả can thiệp nâng cao năng lực Điều dưỡng trưởng tại tỉnh Nghệ An - 3

Mô hình chăm sóc người bệnh toàn diện theo đội mà Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí đang triển khai được đánh giá có thể áp dụng cho nhiều bệnh viện ở nước ta. Phòng ĐD của bệnh viện chịu trách nhiệm chỉ đạo hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, nhân lực ĐD và chịu trách nhiệm trước giám đốc bệnh viện về tổ chức, điều hành và giám sát công tác chăm sóc để người bệnh được CSTD với chất lượng, hiệu quả cao nhất khi tới khám và điều trị tại bệnh viện. Rút kinh nghiệm từ mô hình nhóm chăm sóc toàn diện, từ năm 1998 Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí bắt đầu nghiên cứu điểm thực hiện mô hình phân công chăm sóc theo đội. Đến năm 2005 - 2006 mô hình mới này được triển khai toàn bệnh viện. Đội chăm sóc gồm: bác sĩ, ĐD, KTV phục hồi chức năng, dược lâm sàng, nhân viên y tế khác, học sinh, sinh viên, người bệnh và người nhà người bệnh. Nguyên tắc làm việc của đội chăm sóc là phối hợp chặt chẽ giữa các thành viên, nhằm mục đích phát huy hết khả năng của từng người; phân công nhiệm vụ công khai, cụ thể và khoa học phù hợp với phân cấp người bệnh. Theo dõi người bệnh thường xuyên để thay đổi cấp độ chăm sóc và có những can thiệp kịp thời. Người bệnh là trọng tâm, được chăm sóc cả về thể chất và tinh thần, được tham gia vào lập kế hoạch chăm sóc. Đáng chú ý, người nhà người bệnh cũng được tham gia vào đội chăm sóc đó, có nhiệm vụ hỗ trợ chăm sóc người bệnh theo sự tư vấn, hướng dẫn của các thành viên trong đội. Nhờ đó, hầu hết cán bộ và nhân viên các khoa, phòng đều có thái độ tích cực và ý


thức trách nhiệm trong quá trình triển khai chăm sóc toàn diện người bệnh theo mô hình đội. Trung bình mỗi khoa có hai hoặc ba đội chăm sóc như vậy. Các thành viên đều phát huy được vai trò, trách nhiệm của mình khi tham gia. Chất lượng CSNB được cải thiện, người bệnh được theo dõi sát và liên tục, không có "khoảng trống" trong CSNB.

Tại Bệnh viện Nhi Trung ương, công tác CSNBTD được thực hiện theo mô hình lấy người bệnh, buồng bệnh làm trung tâm với sự tham gia của các lực lượng liên quan (bác sĩ, điều dưỡng, hộ lý, dược...). Nội dung chăm sóc toàn diện bao gồm về chăm sóc y tế (chữa bệnh); thể chất (ăn mặc, ở, vệ sinh); tinh thần (phong cách giao tiếp, thời gian tiếp xúc người bệnh). Nhờ đó, góp phần áp dụng nhiều tiến bộ khoa học công nghệ về chẩn đoán, điều trị và chăm sóc người bệnh và từng bước thực hiện kỹ thuật CSNB chuyên sâu.

Tại Bệnh viện Chợ Rẫy, CSNBTD cũng thực hiện theo mô hình lấy người bệnh làm trung tâm với sự tham gia tích cực của các bộ phận từ lâm sàng, cận lâm sàng cũng như vệ sinh, dinh dưỡng... người bệnh và người nhà người bệnh. Trên cơ sở những nhu cầu chính đáng của người bệnh để tổ chức thực hiện đáp ứng nhu cầu đó. Cán bộ y tế thường xuyên giao tiếp, giải thích tường tận, động viên an ủi, trao đổi với người bệnh và người nhà người bệnh với các hình thức "ba không": không nặng lời, không thờ ơ, không từ chối; "ba công đoạn": xin phép, xin lỗi, cảm ơn.

CSNBTD là dịch vụ hết sức quan trọng, giúp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, làm người bệnh hài lòng là xu thế tất yếu đối với các bệnh viện. Nhưng phần lớn các bệnh viện đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trong việc triển khai loại hình dịch vụ này. Khó khăn đến từ cả trong và ngoài bệnh viện. Các yếu tố bên trong là bệnh viện thiếu nhân lực, tình trạng quá tải, chi phí y tế tăng cao, chính sách cho cán bộ y tế thiếu. Ngoài ra, nhiều lãnh đạo bệnh viện nhận thức chưa đầy đủ về CSNBTD, chưa quan tâm xây dựng và củng cố hệ thống y tá - ĐD, phương tiện chăm sóc... Các yếu tố bên ngoài là nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân tăng trong khi đó chi phí của nhà nước cho khám chữa bệnh giảm. Nhiều ý kiến cho rằng, chăm sóc toàn diện bao hàm cả chăm sóc liên tục, nghĩa là người bệnh được


chăm sóc, quản lý tiếp tục sau khi xuất viện. Nhưng hiện tại vấn đề này đang bị bỏ ngỏ. Theo TS Trần Quý Tường, Phó Cục trưởng Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y tế), để bảo đảm sự hài lòng của người bệnh, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và tăng uy tín của đơn vị, các cơ sở khám chữa bệnh phải đẩy mạnh công tác CSNBTD. Đặc biệt phải thay đổi nhận thức trong toàn thể cán bộ, nhân viên và xác định đây là công việc của tất cả mọi cán bộ, nhân viên [48].

1.3.2.3 Tại Nghệ An:

Ngành y tế đã và đang chỉ đạo các bệnh viện thực hiện nghiêm qui chế của Bộ Y tế về CSNBTD. Tuy nhiên ở trong từng bệnh viện, các khoa chưa thống nhất thực hiện một mô hình chung mà thực tế kết hợp nhiều mô hình khác nhau tùy theo điều kiện cụ thể của khoa. Các bệnh viện trên toàn tỉnh cũng vậy, chưa có một mô hình thống nhất chung cho tỉnh, mỗi bệnh viện đều có lý do riêng cho việc triển khai mô hình chăm sóc phù hợp với điều kiện hiện có.

Kết quả đạt được [45]: Trong những năm qua triển khai mô hình CSNBTD đã thu được một số kết quả như củng cố hệ thống QLĐD. Tổ chức mô hình phân công chăm sóc theo đội (gồm cả bác sĩ, ĐD, học sinh, sinh viên, người bệnh hoặc người nhà người bệnh và cả nhân viên y tế khác) hoặc chăm sóc theo nhóm (bao gồm 2-3 ĐD trở lên). Nhiều bệnh viện bố trí cho ĐD làm việc theo ca kíp tại các khoa trọng điểm như hồi sức cấp cứu, chăm sóc sau phẫu thuật, khoa chăm sóc đặc biệt để đảm bảo chăm sóc người bệnh cả ban ngày và đêm. Quyền lợi của người bệnh thông qua những nội dung chăm sóc.

Chăm sóc y tế: những hoạt động chuyên môn phục vụ cho chẩn đoán, điều

trị, chăm sóc của thầy thuốc, ĐD được cải thiện.

Chăm sóc thể chất: cung cấp những phương tiện phục vụ cá nhân tại bệnh viện, sự tiện nghi trong khi nằm viện, những thực hành chăm sóc trợ giúp cá nhân như vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường buồng bệnh, cung cấp đồ vải, tiện nghi buồng bệnh, dịch vụ ăn uống trong bệnh viện…

Chăm sóc tinh thần: thông qua giao tiếp, tinh thần thái độ phục vụ người

bệnh, những trợ giúp tâm lý, thông tin giáo dục sức khoẻ. Tỷ lệ người bệnh hài lòng


khi sử dụng dịch vụ y tế và điều trị tại bệnh viện đang được cải thiện dần [13], [24], [25], [45], [48], [68].

Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, thách thức: Tại Chỉ thị 05/2003/BYT-CT, Bộ Y tế đã yêu cầu các bệnh viện xoá bỏ mô hình phân công chăm sóc theo công việc, nhưng cho tới thời điểm khảo sát (7/2009) vẫn còn 16% bệnh viện đang thực hiện mô hình chăm sóc theo công việc với lý do là thiếu nhân lực [13].

1.4. Năng lực quản lý điều dưỡng:

1.4.1 Các kỹ năng đánh giá năng lực quản lý Điều dưỡng:

Dựa vào kiến thức hiểu biết và thực hành các kỹ năng QLĐD, gồm 16 kỹ năng sau [16], [14], [20], [30], [40], [95]:

1.4.1.1 Tổ chức chăm sóc người bệnh toàn diện: Năng lực ĐDT được thể hiện thông qua các công việc mà họ phải thực hiện hoặc tổ chức thực hiện hàng ngày. Đó là tổ chức tiếp đón, sắp xếp người bệnh mới vào viện; xây dựng và duy trì mô hình CSNB, kiểm tra thực hiện y lệnh điều trị và kế hoạch chăm sóc; theo dõi bệnh nhân nặng; thực hiện một số kỹ thuật ĐD cơ bản theo đúng quy trình; kiểm tra việc chuẩn bị bệnh nhân trước khi đi phẫu thuật, chuyển khoa, chuyển viện, đi buồng cùng bác sĩ trưởng khoa để nhận và tổ chức thực hiện các y lệnh về điều trị, chăm sóc, chủ động đi buồng hàng ngày để thăm hỏi nắm tình hình và giải quyết các yêu cầu của người bệnh; chủ động báo cáo những diễn biến bất thường của người bệnh cho bác sĩ điều trị và bác sĩ trưởng khoa để kịp xử lý; chủ động tham gia trao đổi, thảo luận với bác sĩ điều trị trong các trường hợp chăm sóc đặc biệt, tổ chức cuộc họp với gia đình người bệnh, tham gia thường trực khi cần thiết. Với những nội dung công việc trên người ĐDT thực sự điều hành toàn bộ công tác CSNB trong khoa, bệnh viện.

1.4.1.2 Chỉ đạo công tác vệ sinh: Hàng ngày, người ĐDT kiểm tra, đôn đốc điều dưỡng, hộ lý và bệnh nhân thực hiện tốt y lệnh của bác sĩ điều trị, qui chế, qui định kỹ thuật bệnh viện, trong đó cả công tác vệ sinh phòng chống nhiễm khuẩn, báo cáo kịp thời với trưởng khoa các việc đột xuất, những diễn biến bất thường của người bệnh để kịp thời xử lý; kiểm tra việc cọ rửa, khử tiệt khuẩn theo qui định, giám sát


việc thu gom phân loại và xử lý chất thải, các biện pháp phòng hộ với nhân viên trong quá trình làm việc.

1.4.1.3 Quản lý nhân lực: Là thực hiện các khâu tuyển dụng nhân lực theo tiêu chuẩn và nội dung công việc, sắp xếp và giao nhiệm vụ, theo dõi, kiểm tra, đánh giá hiệu quả công việc của họ, đồng thời phải thực hiện tốt những yêu cầu của người lao động theo đúng chế độ, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nội dung quản lý nhân lực: Xác định khối lượng công việc chăm sóc; Xác định biên chế ĐD cần thiết; Tuyển chọn; Xác định mô hình phân công chăm sóc; Mô tả công việc cho các vị trí nhân viên; Đào tạo, huấn luyện nhân viên; Xây dựng lịch phân công lao động; Theo dõi và phân công; Nhận xét và đánh giá nhân viên.

1.4.1.4 Quản lý tài sản - Vật tư: Bao gồm quản lý tài sản, máy móc, hàng vật tư tiêu hao. Trên thực tế công việc này quản lý chưa khoa học, còn phụ thuộc, không chủ động dẫn tới tình trạng thiếu thừa, vừa lãng phí, vừa kém hiệu quả.

1.4.1.5 Tham gia đào tạo, nghiên cứu khoa học: Đào tạo lại cho cán bộ trong quá trình công tác là việc làm không thể thiếu được trong quá trình sử dụng nhân lực, đặc biệt là công tác CSNB. Trong quá trình điều hành phân công công việc cho nhân viên, ĐDT sẽ hiểu và đánh giá được thực trạng năng lực công tác, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của ĐDV. ĐDT phải lập kế hoạch, xây dựng nội dung đào tạo, tham gia hướng dẫn, học sinh, sinh viên điều dưỡng trong quá trình thực tập tại khoa, tham gia NCKH và tổ chức các buổi sinh hoạt khoa học tại khoa, tổ chức thi tay nghề cho ĐDV.

1.4.1.6 Lập kế hoạch: Lập kế hoạch là xác định một kế hoạch hoạt động, hoặc xác định phân bổ nguồn lực hiệu quả nhất, nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Lập kế hoạch là chức năng cơ bản đầu tiên và là công cụ quản lý của các nhà quản lý. ĐDTK chịu trách nhiệm xây dựng kế hoạch về phân công công việc, kế hoạch nhận và sử dụng các dụng cụ, kế hoạch nghỉ phép, kế hoạch hội họp, kế hoạch đào tạo lại. Các kế hoạch này phải được Trưởng khoa và Trưởng phòng ĐD bệnh viện thông qua.


1.4.1.7 Tổ chức thực hiện kế hoạch: ĐDTK là người chịu trách nhiệm trực tiếp trước Trưởng khoa trong việc tổ chức các dịch vụ CSNB và phối hợp các hoạt động chăm sóc với bác sỹ, các tổ chức và cá nhân trong khoa, bệnh viện. Nội dung của chức năng tổ chức thực hiện bao gồm: Xác định mô hình chăm sóc; Mô tả công việc cho từng vị trí; Phân công nhân viên đảm nhiệm từng vị trí công tác; Phân bổ nguồn lực; Xây dựng và cải tiến quy trình công việc; Đào tạo và huấn luyện; Điều phối các hoạt động.

1.4.1.8 Đánh giá: Xây dựng các chuẩn mực, tiêu chuẩn đánh giá: Tiêu chuẩn đánh giá gồm 3 loại: (1) Tiêu chuẩn cấu trúc là các điều kiện về nguồn lực để thực thi công việc; (2) Tiêu chuẩn quy trình là thứ tự các bước thực hiện công việc; (3) Tiêu chuẩn đầu ra là kết quả cuối cùng của công việc. ĐDT cần thực hiện đánh giá thường xuyên, liên tục và toàn diện để cải thiện chất lượng các dịch vụ ĐD. Phương pháp đánh giá cần dựa vào báo cáo, hồ sơ chuyên môn, sổ sách hành chính, dựa vào ý kiến góp ý của bệnh nhân, dựa vào quan sát thực tế trực tiếp đi buồng của ĐDTK.

1.4.1.9 Giám sát hỗ trợ: Là một khâu quan trọng của chu trình quản lý, giám sát là tìm ra các vấn đề tồn tại, khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện kế hoạch hành động, để có thể giải quyết kịp thời và điều chỉnh kế hoạch các hoạt động.

1.4.1.10 Ứng dụng công nghệ thông tin: Hiện nay, việc áp dụng các phần mềm vào quản lý bệnh viện đang còn tản mạn, chưa đồng bộ. Kỹ năng ứng dụng CNTT của các ĐDTK rất hạn chế. Việc đưa CNTT vào bệnh viện và tin học hoá đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ quản lý nói riêng là chủ trương đúng đắn nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế đáp ứng yêu cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân.

1.4.1.11 Ra quyết định: Căn cứ vào việc xác định vấn đề trong quá trình chăm sóc, nhu cầu nguồn lực, người ĐDTK đưa ra quyết định kịp thời, đúng đắn và hiệu quả. Đây là một trong những kỹ năng cần thiết giúp cho người quản lý điều dưỡng giải quyết các vấn đề quản lý nhanh, hiệu quả góp phần nâng cao chất lượng CSNB.


1.4.1.12 Giải quyết vấn đề: Vấn đề là sự khác biệt giữa mong muốn và hiện tại. Chỉ được coi là vấn đề khi có 3 nội dung cơ bản: nhận thức được sự khác biệt; có áp lực đòi hỏi giải quyết vấn đề; có nguồn lực cần thiết để giải quyết vấn đề.

Người ĐDTK cần phải có kỹ năng này để xác định các vần đề, lựa chọn ưu

tiên giải quyết hiệu quả.

1.4.1.13 Tổ chức cuộc họp: Trong công tác quản lý người ĐDT phải tổ chức và chủ trì cuộc họp để điều hành công tác CSNB. Nếu họp không thường xuyên sẽ dẫn đến thiếu thông tin, làm cho công tác quản lý không hiệu quả hoặc thất bại. Nếu tổ chức cuộc họp tốt, đều đặn nhưng không chuẩn bị nội dung kỹ lưỡng sẽ làm lãng phí thời gian của người tham dự. Vì vậy, ĐDT phải rèn luyện kỹ năng tổ chức và điều hành cuộc họp.

1.4.1.14 Quản lý thời gian: Người ĐDTK phải trực tiếp quản lý nhiều nguồn lực khác nhau trong đó có cả quản lý thời gian, muốn trở thành người quản lý điều dưỡng giỏi phải biết quản lý thời gian giỏi. Để đạt được điều đó, người ĐDT phải biết sử dụng thời gian của bản thân mình một cách có hiệu quả, điều hành, sắp xếp các công việc một cách hợp lý, khuyên bảo cấp dưới sử dụng thời gian của họ một cách hữu hiệu. Muốn như vậy phải có kế hoạch làm việc và nghiêm túc thực hiện kế hoạch đề ra, biết tận dụng, phát huy tiết kiệm thời gian, loại trừ yếu tố làm lãng phí thời gian.

1.4.1.15 Văn bản hành chính và cách soạn thảo công văn: Trong quá trình hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành, để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, các cơ quan nhà nước ngoài sử dụng các bản quy phạm pháp luật, còn dùng các văn bản hành chính thông thường để báo cáo, thông báo, chỉ đạo, giao dịch, liên hệ công việc. ĐDT là một trong số cán bộ quản lý và lãnh đạo điều dưỡng nên phải có kiến thức trong soạn thảo văn bản và quản lý văn bản, biểu mẫu, ghi chép thông tin, báo cáo tại đơn vị mình.

1.4.1.16 Quản lý hồ sơ: Thực hiện theo Thông tư 07/2011/TT-BYT ngày 26/01/2011 về hướng dẫn công tác ĐD về CSNB trong bệnh viện và Quyết định số 4069/QĐ-BYT ngày 28/9/2001 về việc ban hành "Mẫu hồ sơ - bệnh án". Tài

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/11/2022