Thực trạng môi trường và tình hình sức khỏe công nhân tiếp xúc với dung môi hữu cơ tại Công ty cổ phần giầy Hải Dương năm 2010 - 2


Tiếng ồn:

Tiếng ồn là tập hợp của những âm thanh có cường độ và tần số khác nhau kết hợp một cách lộn xộn, gây cảm giác khó chịu cho người nghe, cản trở người làm việc và nghỉ ngơi.

Tiếng ồn không ổn định tác hại mạnh hơn tiếng ồn ổn định. Tác hại của tiếng ồn đối với cơ thể được biểu hiện rõ rệt nhất trong điều kiện sản xuất, vì có nhiều bộ phận phát ra tiếng ồn [20], [21].

Tiếp xúc với tiếng ồn > 90 dBA ngoài khả năng gây ĐNN, còn làm rối loạn hệ thống vận mạch, gây tăng HA, suy nhược TK và hội chứng dạ dày tá tràng. Trong nghiên cứu này tỷ lệ ù tai (80%), nghe kém (52%) [28].

Theo Nguyễn Thị Toán cho thấy CN khai thác đá phải làm việc trong môi trường có tiếng ồn hầu hết vượt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép và tiếng ồn cao nhất ở khoan và nghiền đá óc nơi vượt TCCP từ 10 – 18 dBA. Trong nghiên cứu này tỷ lệ ĐNN của CN khai thác đá là 17,27%, cao nhất là nhóm CN khoan (23,6%). CN bị ù tai từ 80 – 97,6%, đau đầu từ 72 – 85,7%, mất ngủ từ 68 – 81%, hội chứng dạ dày – tá tràng từ 14,3 – 32%, tăng HA từ 14,3

– 18,3% [24].

Với ngành giầy nguồn gốc tiếng ồn chủ yếu là do tiếng động cơ của các loại máy chặt, máy đùn viền, máy đập và máy mài đế gây ra [26].

Ô nhiễm bụi:

Bụi là một dạng khí dung có các hạt phân tán rắn, được hình thành do sự nghiền nát cơ học các vật rắn như: nứt vỡ, nghiền xay, đập nát… Người ta quan tâm nhiều đến bụi có chứa hàm lượng silic tự do gây bệnh bụi phổi – silic.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 66 trang tài liệu này.

Nghiên cứu những tác hại của bụi đối với sức khỏe người lao động, đặc biệt là viêm phế quản (VPQ) mạn tính do bụi. Các tác giả đã nhận thấy rằng: Số CN mắc VPQ mạn tính nhưng chưa có biểu hiện rối loạn chức năng hô hấp thường có tuổi nghề >10 năm, cùng với bệnh VPQ mạn tính còn có cả


Thực trạng môi trường và tình hình sức khỏe công nhân tiếp xúc với dung môi hữu cơ tại Công ty cổ phần giầy Hải Dương năm 2010 - 2

biểu hiện rối loạn thông khí với những CN chịu tác động phối hợp giữa bụi với tiếng ồn và rung [19].

Theo Trần Như Nguyên (1996) nghiên cứu ảnh hưởng của bụi và hơi khí độc gây VPQ mạn tính ở CN xí nghiệp Dược phẩm trung ương 2: Hơn 1/3 (35,69%) CN có chức năng hô hấp bất thường (đủ ba hội chứng hạn chế, hội chứng tắc nghẽn, hội chứng hỗn hợp) [16].

Đối với CN sản xuất giầy có tới 65% thường xuyên phải tiếp xúc với bụi, trong đó CN làm việc tại vị trí máy chặt đế cao su là có bụi trọng lượng cao nhất (6,8 mg/m3) với tỷ lệ SiO2 là 16%. Tuy vẫn nằm trong giới hạn cho phép song cần đảm bảo đầy đủ các biện pháp nhằm bảo vệ tốt đường hô hấp cho CN để hạn chế tới mức tối đa có thể nguy cơ mắc bệnh bụi phổi silic ở CN [26].

Các yếu tố hóa học:

Hơi khí độc trong công nghiệp là một chất độc công nghiệp có thể là nguyên liệu để sản xuất, thành phẩm, bán thành phẩm hoặc chất thải bỏ trong quá trình sản xuất.

Nếu tiếp xúc với các hóa chất trong thời gian dài, không những ảnh hưởng đến da mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ các bộ phận khác của cơ thể như: hô hấp, tim mạch, tiêu hóa.... Sự kết hợp giữa nồng độ các hóa chất và điều kiện làm việc ở nhiệt độ cao, làm tăng khả năng bay hơi của các chất độc và đồng thời tăng hô hấp, tuần hoàn, dẫn đến tăng khả năng hấp thu chất độc [27].

Đối với ngành công nghiệp sản xuất giầy thì CN chủ yếu phải tiếp xúc thường xuyên với các hơi khí độc là NH3, xăng công nghiệp, toluen và hexan.

Nếu người CN làm việc trong môi trường có nồng độ hơi khí độc vượt quá TCCP, người CN hít phải gây cảm giác khó chịu, có thể mắc các bệnh gây tổn thương đường hô hấp trên và đường hô hấp dưới ở dạng cấp tính hoặc mãn tính. Thời gian tiếp xúc càng lâu thì các triệu chứng này tăng lên rõ rệt [26].


Các stress nghề nghiệp:

Các stress về điều kiện môi trường lao động bao gồm: Tiếng ồn, nóng, thông khí kém, thiếu ánh sáng, thiết kế thiếu ecgonomi đều có liên quan đến sự phàn nàn về sức khỏe, tâm sinh lý người lao động.

Theo Trần Như Nguyên nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện lao động nóng ẩm, nóng khô đến sức khỏe CN đã phát hiện 10 Stress nóng, 16 ± 2% say nóng, nhiễm độc CO, các bệnh có tỷ lệ cao: mũi, họng, mắt...[16].

Ecgonomi vị trí lao động:

Khi nói về ecgonomi vị trí lao động người ta đề cập đến hàng loạt vấn đề về thiết kế vị trí lao động, tư thế lao động bắt buộc, thiết bị lao động, không gian làm việc, hệ thống người – máy, ca lao động.

Nếu mọi hoạt động trong quá trình lao động không thoải mái, gò bó, gây căng thẳng sẽ ảnh hưởng tới sức khỏe người lao động và dễ gây tai nạn lao động [5].

Tổ chức lao động:

Lao động ca kíp cũng là một yếu tố áp lực công việc gây tác động sức khỏe và an toàn nghề nghiệp. Lao động ca thường ảnh hưởng tới những hành vi sức khỏe như thay đổi giấc ngủ, thói quen ăn uống, tăng sử dụng thuốc lá, rượu.

Tổ chức lao động: Nhiều nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng tâm sinh lý có liên quan đến yếu tố tổ chức lao động, kỹ năng nghề cũng tác động đến hậu quả sức khỏe [33].

1.3 Ảnh hưởng của điều kiện lao động tới sức khỏe công nhân:

Chúng ta biết rằng những bất hợp lý của môi trường lao động như cường độ tiếng ồn quá cao, cường độ chiếu sáng không đảm bảo, nơi làm việc quá bụi hay nồng độ hơi khí độc quá cao. Những bất hợp lý về tổ chức lao động, về phương tiện công cụ, máy móc cũng như bất hợp lý khác về cường


độ lao động, tư thế lao động là những yếu tố bất hợp lý của điều kiện lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của nhiều người lao động.

Lao động trong điều kiện VKH nóng ẩm như Việt Nam thì tác động của VKH nóng phối hợp với các yếu tố độc hại khác như hơi khí độc xylen, benzen, toluen, hexane và bụi là tác nhân gây cản trở hô hấp mạnh và làm tăng ảnh hưởng xấu tới người lao động, CN nhanh chóng mệt mỏi về thể lực và TK tâm lý, biến đổi một loạt chức năng sinh lý cơ bản, giảm sút khả năng lao động, kéo dài thời gian phản xạ TK dẫn đến tai nạn lao động. Nếu tác động đó kéo dài gây suy giảm sức khỏe, tăng tỷ lệ bệnh tật. Nhất là các bệnh đường hô hấp, tai mũi họng mặt khác làm tăng tỷ lệ các bệnh đặc biệt như bệnh của hệ thống tiêu hóa, TK, tim mạch, tiết niệu.

Ảnh hưởng của môi trường lao động, nhất là tác động phối hợp giữa các yếu tố tác hại nghề nghiệp tới các biến đổi sinh lý, bệnh lý của CN được đề cập càng rõ nét nhất là sau hội nghị Quốc tế lần thứ hai về tác động phối hợp nhiều yếu tố trong vệ sinh lao động tại Nhật (1986) đã thu hút nhiều nước công nghiệp phát triển như: Mỹ, Nhật, Đức, Liên Xô (cũ), Phần Lan, Áo và một số nước khác thuộc Châu Á nghiên cứu như: Trung Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Philippin...... Chủ yếu tác động môi trường ở đây là VKH nóng công nghiệp, bụi và hơi khí độc CO, CO2, SO2, benzen, toluen là nhóm yếu tố lý hóa tác động xấu lên quá trình hô hấp tại đường hô hấp trên, tại phổi và quá trình vận chuyển O2 trong máu [9].

1.3.1 Tác động của môi trường nhiệt độ và độ ẩm cao:

Ảnh hưởng của khí hậu nóng ẩm tới khả năng lao động là do sự tác động phối hợp của hai yếu tố nóng và ẩm, trong đó độ ẩm giữu vai trò quan trọng [8].


Nghiên cứu của Scherbak E.A [37] cho thấy ở CN phải thường xuyên tiếp xúc với nóng ẩm cao có tỷ lệ bệnh mạch vành và bệnh cao HA lần lượt là (11,6%; 27,7%) cao hơn so với người không tiếp xúc thường xuyên với tỷ lệ là (6,7%; 15,7%).

Theo Phùng Văn Hoàn [12] khi nghiên cứu tác động phối hợp của VKH nóng với hơi khí độc và bụi môi trường lao động tới sức khỏe và bệnh tật ở CN vận hành lò công nghiệp cơ khí cũng cho thấy sau lao động nhịp hô hấp tăng lên rõ rệt.

Theo Rutkove và cộng sự [17] nhiệt độ và độ ẩm cao gây rối loạn hoạt động các phản xạ của cơ thể. Theo tác giả, khi nhiệt độ môi trường từ 300C trở lên khả năng tiếp thu kiến thức, trí nhớ, tư duy giảm tỷ lệ thuận với tăng nhiệt độ, độ ẩm môi trường. Khi nhiệt độ môi trường tăng thì tốc độ dẫn truyền xung động trên sợi TK đến cơ giảm, làm các cơ bị mệt mỏi, sự điều hòa phối hợp vận động kém, dẫn đến giảm năng suất lao động và tai nạn lao

động tăng, nhất là về cuối ca lao động [25]. Những biến đổi này chỉ là tạm thời, có thể mất đi khi thôi không tiếp xúc với môi trường nóng ẩm nữa.

1.3.2 Tác động của tiếng ồn:

Tiếng ồn gây nên những biến đổi khác nhau đối với chức năng của hệ tim mạch như cảm giác khó chịu vùng tim (đánh trống ngực), tiếng thổi cơ năng của tim, loạn nhịp xoang, tần số mạch, nguy cơ gây bệnh mạch vành và HA biến động nhanh [17], [30], [39].

Tiếng ồn làm suy giảm khả năng thính giác. Ở những người tiếp xúc với tiếng ồn lớn sau ngày làm việc có cảm giác ù tai, đau dai dẳng trong tai, tai như có tiếng ve, tiếng muỗi kêu, hay bị chóng mặt, vã mồ hôi, mệt mỏi, dễ cáu kỉnh, trí nhớ giảm, năng suất lao động giảm từ 20 – 40%, tai nạn dễ phát sinh [21]. Tác hại của tiếng ồn càng tăng khi lao động trong môi trường nhiệt


độ và độ ẩm cao. Đối với những nghề thường xuyên tiếp xúc với tiếng ồn lớn và có hệ thống thì sẽ dẫn đến ĐNN [18].

1.3.3 Tác động môi trường hơi khí độc:

Nghiên cứu của Trần Thị Liên cho thấy tỉ lệ mắc bệnh ngoài da do tiếp xúc các loại hóa chất, dược phẩm ở CN Công ty cổ phần dược phẩm trung ương 2 là 38,1%. Các thể bệnh ngoài da có tỉ lệ mắc cao là bệnh mày đay, sẩn ngứa dị ứng (4,6 – 5,6%), bệnh á sừng (4,6 – 9,9%), viêm quanh móng (2,6 – 5,4%), khô da (2,7 – 3,6%), viêm da tiếp xúc (1,6 – 3,3%) và sạm da (5,2 – 7,4%). Điều này cho thấy bệnh da nổi trội ở CN sản xuất dược phẩm thuộc thể loại bệnh da dị ứng, viêm da tiếp xúc [13].

Theo thống kê (ở Liên Xô cũ), bệnh da nghề nghiệp chiếm 50% so với các bệnh nghề nghiệp nói chung. Ở nước CHDC Đức cũ, Weber và Nett đã so sánh trong 7 năm thấy bệnh da nghề nghiệp tăng 3,25 lần [23].

Phan Bích Hòa - Trần Văn Huấn nghiên cứu ảnh hưởng của hơi xăng đến sức khỏe của CN cho thấy: 40 - 50% CN mắc bệnh tai mũi họng, mắt, sạm da (20%) [11].

Nguyễn Bá Chẳng – Phạm Văn Đoàn nghiên cứu ảnh hưởng của xăng dầu đến sức khỏe của CN cho thấy có 9,2% CN có chì niệu, sạm da (13,2%), mắt (72%) [4].

1.3.4 Tác động của bụi:

Nghiên cứu về rối loạn thông khí phổi ở CN tiếp xúc với bụi silic của Tạ Tuyết Bình, Lê Trung (2003) cho thấy tỷ lệ CN tiếp xúc với bụi phổi – silic có rối loạn thông khí phổi là 13,4%, trong số này chủ yếu là rối loạn thông khí hạn chế, sau đó là rối loạn thông khí hỗn hợp, ít gặp rối loạn thông khí tắc nghẽn đơn thuần [2], [ 3].

Từ tác hại của bụi tác động lên hệ thống hô hấp gây bệnh bụi phổi (tổn thương xơ hóa phổi), bệnh VPQ phổi tắc nghẽn, đã dẫn đến những rối loạn


chức năng tim mạch như tăng áp lực động mạch phổi, biến đổi HA, nhịp tim, trục điện tim… [35].

1.3.5 Tác động của stress:

Các stress trong môi trường lao động như tiếng ồn, hơi khí độc, thiếu ánh sáng… Ảnh hưởng rất nhiều tới gánh nặng tâm thần, là nguyên nhân góp phần làm tăng HA, tăng nhịp tim, tăng nguy cơ mắc bệnh mạch vành [38].

Tác động của stress ở nơi làm việc lên hệ thống hô hấp là thông qua những thay đổi chức năng của hệ TK giao cảm gây giãn tiểu phế quản hoặc phó giao cảm gây co tiểu phế quản, làm thay đổi chức năng thông khí phổi [5].

1.3.6 Tác động của ecgonomi vị trí lao động:

Tư thế làm việc khó khăn là một trong những yếu tố bất lợi của môi trường lao động: Do sắp xếp nơi làm việc không hợp lý, việc thiết kế và lựa chọn các công cụ không phù hợp, phương pháp làm việc không đúng. Các tư thế làm việc khó khăn có thể gây ra sự mệt mỏi và góp phần vào sự phát triển của các rối loạn cơ xương [23].

Ở CN sản xuất giầy tư thế lao động chủ yếu là ngồi tĩnh tại, cúi khom lưng – cổ kéo dài (góc cúi lưng 50 - 700, góc cúi cổ 40 - 500 theo phương thẳng đứng), kết hợp với dịch chuyển liên tục lặp đi lặp lại và thao tác kéo dài của ca sản xuất. Công nhân da giầy còn phải thao tác cao cánh tay trên mặt bàn cao 75cm (thợ gò), 65cm (thợ may mũi giầy). Với tư thế lao động này tỷ lệ nghỉ ốm do các triệu chứng cơ xương khớp của CN da giầy luôn đứng thứ

hai trong danh mục bệnh tật của các công ty, thể hiện mức độ trầm trọng, cấp bách về sức khỏe nghề nghiệp [6].

Theo thống kê của WHO có hơn 50% bệnh nghề nghiệp là do yếu tố Ecgonomi mà chủ yếu liên quan tới tư thế lao động không hợp lý gây ra. Ở Thụy Điển năm 1980 có 52,9% bệnh nghề nghiệp gây nên do yếu tố ecgonomi, trong khi đó bệnh nghề nghiệp do tiếng ồn chỉ chiếm 12,1%. Ở


Việt Nam tuy nền kinh tế đã phát triển hơn trước nhiều song vẫn còn có rất nhiều khó khăn do vậy hầu hết trang thiết bị dây chuyền máy móc của ta là nhập ngoại. Sự không phù hợp giữa các loại máy móc được thiết kế cho người nước ngoài với đặc điểm nhân trắc của Việt Nam chính là nguyên nhân làm tăng tư thế lao động bất hợp lý.

1.4 Những nghiên cứu về môi trường lao động và tình hình sức khỏe của công nhân tiếp xúc với dung môi hữu cơ trong và ngoài nước:

Chúng ta đều biết rằng môi trường lao động có ảnh hưởng trực tiếp tới tình trạng sức khỏe của công nhân. Khi môi trường lao động đạt tiêu chuẩn thì sức khỏe của CN được bảo đảm khi đó năng suất lao động sẽ cao, ngược lại môi trường lao động không tốt sẽ có ảnh hưởng xấu tới tình trạng sức khỏe của người lao động.

- Những nghiên cứu nước ngoài:

Các tác giả VD Heuser, B Erdtmann, K Kvitko, P Rohr, Da Silva J nghiên cứu thiệt hại di truyền trong CN sản xuất giầy dép ở Brazil cho thấy CN sản xuất giầy dép thường xuyên phải tiếp xúc với hỗn hợp phức tạp của các dung môi được sử dụng trong làm sạch và làm chất pha loãng trong các loại keo, sơn lót… Nghiên cứu cho thấy rằng 25% số CN được nghiên cứu có sự hư hại về ADN [32].

Các tác giả May - O, Pires - A, Capela - F nghiên cứu về nhà máy giầy

ở miền bắc Bồ Đào Nha năm 1999 cho thấy:

Sản xuất giầy là ngành công nghiệp truyền thống ở miền bắc Bồ Đào Nha. Có khoảng 1500 nhà máy và có gần 54.000 CN làm việc tại đây. Trong số các nguyên vật liệu được sử dụng trong quá trình sản xuất giầy thì phần lớn là có thể gây ra các bệnh nghề nghiệp. Nguyên liệu chủ yếu là chất dính, chất hòa tan đặc biệt và DMHC. Theo viện nghiên cứu sức khỏe quốc gia (oporto branch) nghiên cứu trên 100 nhà máy ở phía bắc Bồ Đào Nha có tiếp xúc với

Xem tất cả 66 trang.

Ngày đăng: 29/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí