Thực Trạng Tiêu Dùng Sản Phẩm Thân Thiện Môi Trường Tại Việt Nam

Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều làng nghề chưa thể thực hiện được việc sản xuất giảm thiếu ô nhiễm, tiết kiệm nguyên nhiên liệu, không sử dụng các hóa chất độc hại gây hại cho môi trường nhằm sản xuất các sản phẩm TTMT. Như các làng nghề truyền thống nổi tiếng ở Hà Đông: dệt lụa Vạn Phúc, dệt the La Khê, La Cả (xã Dương Nội) nghề rèn Đa Sỹ (xã Kiến Hưng)…Các làng nghề này vẫn còn sử dụng những phương pháp thủ công gây hại cho môi trường: dùng than để đun nấu để đun nấu các loại hoá chất dệt nhuộm nên không khí xung quanh khu vực đó luôn luôn bị ô nhiễm; nước thải của các cơ sở sản xuất đã làm sông Nhuệ bị ô nhiễm. Những sản phẩm do các làng nghề này sản xuất, không TTMT do dư nhiều hóa chất độc hại gây hại cho sức khỏe của người tiêu dung. Ngoài ra, việc sản xuất những sản phẩm này tạo ra một lượng rác thải lớn, khó phân hủy phế liệu, rác thải hữu cơ gây mùi hôi thối và làm phát sinh các dịch bệnh. Rác vô cơ bền vững với tự nhiên, khó phân huỷ nên gây tác hại lâu dài, làm cho đất đai bị chai đi, mất cấu trúc, biến đổi tính chất tự nhiên dẫn đến việc giảm năng suất sinh học, tạo

ra nhiều yếu tố độc hại đối với môi trường sống tác động đến chuỗi thức ăn của mọi người dân30

3. Thực trạng tiêu dùng sản phẩm thân thiện môi trường tại ViệtNam

3.1 Thực trạng tiêu dùng

Qua thu thậ p và nghiên cứ u tà i liệ u cho thấ y , ngườ i tiêu dù ng Việ t Nam có rất ít hiểu biết , hiể u rấ t mơ hồ về sả n phẩ m hoặ c gắ n việ c tiêu dù ng sả n

phẩ m trong hoạ t độ ng BVMT . Tiêu dùng xanh còn là một khái niệm quá mới ở Việt Nam.

Mặ c dù , trong thờ i gian gầ n đây , trên thị trườ ng đã xuấ t hiệ n mộ t số sả n phẩ m nộ i đị a và nhậ p khẩ u đã có NST loạ i II , ví dụ: bộ t giặ t BVMT, bế p điệ n tiế t kiệ m năng lượ ng , giấ y có thể tá i chế , sử dụ ng í t tà i nguyên, giảm tác động

30 http://tmmt.gov.vn/default.aspx?ID=8&LangID=1&NewsID=943 cập nhật ngày 27/05/2009

tớ i môi trườ ng 31… Nhưng các sản phẩm này ít gây được sự chú ý của người tiêu dùng. Người tiêu dùng không hoặc ít khi chú ý đến yếu tố TTMT khi chọn mua sản phẩm. Nói cách khác, đa số người dân Việt Nam chưa có ý thức tiêu dùng xanh. Ví dụ: nếu một người có ý thức tiêu dùng xanh khi mua trà sẽ đặt ra các câu hỏi như: Trà có sạch không? Có tẩm ướp hóa chất độc hại không? Ai có được việc làm và thu nhập từ sản phẩm trà này, trong đó có người nghèo ví dụ đồng bào dân tộc Dao, H’mông, Tày, Eđê … . hay người lao động nghèo trong nước không ? Sản phẩm này có phải được tạo ra từ sự hủy hoại môi trường không ? … Do đó , ngườ i đó khi tiêu dùng sẽ chú ý thu gom và tái chế các phụ phẩm sao cho không gây ô nhiễm môi trường sống. Nhưng phần lớn người tiêu dùng Việt Nam không có ý thức này . Mứ c độ ảnh hưở ng của tiêu chí TTMT khi lự a chọ n sản phẩm tiêu dù ng vẫ n cò n thấ p . Sự sẵ n lò ng chi trả cho cá c sả n phẩ m TTMT không cao, người tiêu dùng vẫn còn có xu hướng thích mua những sản phẩ m rẻ hơn là TTMT. Ví dụ, trong cả nước người dân vẫn có thói quen sử dụng các loại túi bao đựng bằng Polyethylene là những loại khó phân hủy, không tái chế được và gây ô nhiễm môi trường. Hay thói quen mua những sản phẩm có mùi hương thơm ngát. Loại giấy này vừa gây hại cho sức khỏe, vừa gây ô nhiễm môi trường bằng các chất thải độc hại trong quá trình sản xuất. Còn nếu sử dụng những loại sản phẩm TTMT như loại giấy vệ sinh sản xuất từ bột giấy không tẩy trắng và không tẩm hương lịêu. Loại giấy này đắt gấp 3 lần so với loại giấy vệ sinh sản xuất theo cách thông thường.

Tuy nhiên, ở một số doanh nghiệp và văn phòng của một số tổ chức nước ngoài như Đại Sứ Quán Đan Mạch, Toyota Việt Nam thì xu hướng tiêu dùng xanh (tức mua sắm các sản phẩm xanh để sử dụng trong văn phòng) có phát triển hơn. Ở đây, các tổ chức hoăc các doanh nghiệp khá chú trọng và ưu tiên tiêu dùng sản phẩm TTMT.

31 NST đối với hàng hóa xuất khẩu và tiêu dùng nội địa _ TS Nguyễn Hữu Khải chủ biên

Qua thự c tế điều tra 300 người tiêu dùng tại khu vực Hà Nội, bằng phương pháp thống kê, phương pháp phát phiếu điều tra, chọn mẫu . Tác giả đã tổ ng hợ p ý kiế n vớ i 11 câu hỏ i (một câu có thể được chọn nhiều đáp án ), nhìn chung cho thấy . 70% số người được hỏi đều hiểu được tác dụng của sản phẩm TTMT. Tuy nhiên mức độ sẵn sàng chi trả cho sản phẩm TTMT không cao chỉ có 10% sẵn sàng mua sản phẩm TTMT không quan tâm đến giá cả. Toàn bộ những người trả lời như vậy đều có mức thu nhập khá cao, phần lớn đều hơn 10 triệu (80%) và chỉ có 20% số đó có mức thu nhập thấp hơn thế (trong đó có 78% từ 5-10 triệu và còn lại từ 2-5 triệu). Điều này chứng tỏ mức thu nhập của người tiêu dùng quyết định đến mức độ sẵn lòng chi trả cho sản phẩm TTMT của sản phẩm. Ta cũng có thể nhận thấy người tiêu dùng Việt Nam vẫn chưa có đầy đủ nhận thức về vấn đề BVMT khi tiêu dùng sản phẩm chỉ có 15% cân nhắc kĩ khi mua sản phẩm, còn một nửa số người thì không quan tâm, tuy vậy người tiêu dùng Việt Nam có ý thức hơn trong việc tiết kiệm và bảo vệ sức khỏe với 60% người được hỏi cân nhắc kỹ các quyết định về an toàn sức khoẻ trước khi quyết định mua sản phẩm. Người tiêu dùng vẫn còn khá xa lạ với NST, chỉ có 39% trả lời đã có nghe nói đến NST (trong số này lại chỉ có 5% được nghe nói thường xuyên) còn 40 % trả lời không biết.

3.2 Nguyên nhân

Mặc dù, các sản phẩm TTMT đem lại rất nhiều lợi ích, đặc biệt trong việc BVMT và sức khỏe của người sử dụng, nhưng, người tiêu dùng Việt Nam còn chưa có ý thức trong việc tiêu dùng những sản phẩm này, điều này xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân:

Thứ nhất, giá của các loại sản phẩm này còn khá cao cao, cao hơn khá nhiều so với các sản phẩm cùng loại. Trong khi đó, mức thu nhập của người dân Việt Nam còn ở mức trung bình và thấp, nên sản phẩm TTMT khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại. Điển hình như, trong cuộc cạnh tranh của gạch block 32. Phần lớn các doanh nghiệp sản xuất cho biết tuy loại gạch này được xem là TTMT nhưng khó cạnh tranh vì giá quá cao so với gạch tuynel hay gạch đất nung truyền thống. Một viên gạch loại này, giá của nó dao động từ 3000 - 6000 đ/ 1 viên , gấp hơn 4-6 lần so với gạch tuynel33. Đại đa số người tiêu dùng nhận thấy rằng giá cả các vật liệu đẳng cấp cao này hiện chưa phù hợp với túi tiền của họ.

Gạch block TTMT với công nghệ sản xuất không khói tiết kiệm nhiên liệu Hay 1

Gạch block TTMT với công nghệ sản xuất không khói, tiết kiệm nhiên liệu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Đánh giá thực trạng và tiềm năng phát triển của sản phẩm thân thiện môi trường ở Việt Nam - 7


Hay như, trên thị trường cũng đã có những loại xe máy rất TTMT, vận hành bằng pin nhiên liệu chỉ sử dụng khí hydro kết hợp với oxy trong không khí tạo ra điện năng vận hành xe nên thải rất ít khí thải độc hại mà tiết kiệm nhiên liệu rất nhiều lần so với các loại xe thông thải và lượng khí dioxit carbon (khí CO) thải ra có thể giảm tới 37%. Tuy nhiên giá thành của các loại sản phẩm này cao gấp bốn, năm thậm chí sáu lần so với các loại xe khác.


32 gạch block là một loại gạch giúp bảo vệ sức khoẻ của người sử dụng, không sử dụng đất và nhiên liệu để nung, không thải ra các khí độc hại, góp phần BVMT

33 http://giaxaydung.vn/diendan/cong-nghe-moi/6200-gach-block-ung-dung-day-chuyen-sx-thiet-bi-sx-2.htmlcập nhật ngày 16/08/2008


Xe ga TTMT

Thứ hai, chủng loại của các sản phẩm này còn khá khiêm tốn. Hiện nay, do mức thu nhập của người dân có tăng lên, đã có những hộ gia đình có mức thu nhập khá, muốn tiêu dung xanh, họ có thể chấp nhận mức giá nhưng họ nhận thấy nguồn cung hiện chưa đủ chủng loại, sản phẩm chưa đa dạng, rất khó có sự chọn lựa.

Thứ ba, người tiêu dùng Việt Nam hiện nay khá hoài nghi về sự công bố tính TTMT của sản phẩm do các doanh nghiệp công bố. Các công bố về tính TTMT này mang lợi ích lớn cho các nhà sản xuất, nhập khẩu hoặc phân phối, thêm vào đó ở Việt Nam hiện nay chưa có một cơ quan độc lập nào có thẩm quyền cấp hoặc chứng nhận cho những công bố sản phẩm thân thiện với môi trường, nên có nhiều cá nhân đã lợi dụng điều này cho sản phẩm của mình, dù không TTMT vẫn được dán các nhãn mác sạch, tiết kiệm hay TTMT, do đó tính trung thực chưa cao…Đặc biệt là các sản phẩm TTMT thuộc nhóm nông sản, mỹ phẩm. Ví dụ, Ngày 26/8/2007, kênh thời sự VTV1 đưa tin về việc thương hiệu rau sạch Vân Nội, Đông Anh, Hà Nội bị ảnh hưởng nghiêm trọng do các "Cửa hàng rau sạch" lại bán rau không rõ nguồn gốc, và tất nhiên cũng không an toàn.

Tình trạng diễn ra tương tự với các sản phẩm nhập khẩu. Các loại sản phẩm được xem là TTMT có gía cao hơn, nhưng phần lớn chỉ là những sản phẩm do các doanh nghiệp sản xuất nước ngoài , hoặc các nhà nhập khẩu tự công bố, ít có sản phẩm được chứng nhận bởi một bên thứ ba có uy tín . Trên thự c tế , chỉ có một số công bố của một vài sản phẩm là có sự chứng nhận của

mộ t bên thứ ba đá ng tin cậ y như Công t y hó a chấ t củ a Nhậ t Bả n là đá p ứ ng tiêu chuẩ n củ a Eco -mark hay mộ t số sả n phẩ m thuộ c nhó m nông sả n như : hoa quả sạch nhập khẩu từ Mỹ có dán NST của Mỹ , còn những quảng cáo khác mang tí nh tự tuyên bố củ a doanh nghiệ p mà k hông có bấ t kỳ sự công nhân nào từ phía các cơ quan chức năng của nhà nước hay một tổ chức chứng nhận độ c lậ p đá ng tin cậ y nà o khá c . Thậm chí đó là những sản phẩm đến từ các quốc gia đã có chương trình cấ p NST như Mỹ , Nhậ t Bả n , Đức, Hàn Quốc ,‌

Thái Lan , Đà i Loan , Trung Quố c… và chú ng đề u thuộ c danh mụ c nhó m sả n phẩ m đã đượ c lự a chọ n và xây dự ng tiêu chí cấ p nhã n 34. Đã nhiều trường hợp, kể cả ở một số siêu thị lớn mua táo Trung Quốc, rồi ngồi dán mác "hoa quả sạch nhập khẩu từ Australia" một cách công khai. Tất nhiên giá gấp 3-4 lần so với các loại hoa quả nhập khẩu từ Trung Quốc có mức độ kiểm duyết thấp, không đảm bảo cho sức khỏe…35. Điều đó khiến người tiêu dùng nghi ngờ về mức độ tin cậy của những công bố TTMT cho sản phẩm.

II. Đánh giá thực trạng của sản phẩm thân thiện môi trường trong tình hình hiện nay

1. Thuậ n lợ i

Để có một nền kinh tế phát triển song song với việc phát triển môi trường bền vững cũng như tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc phát triển sản phẩm TTMT là một việc làm bắt buộc. Việt Nam đã có nhiều thuận lợi cơ bản về mặt chủ quan lẫn khách quan:

Thứ nhất, hiện nay ở Việt Nam đã bắt đầu có một số các doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng của việc sản xuất và cung ứng sản phẩm TTMT. Hơn nữa , không í t doanh nghiệ p đã và đang bắ t đầ u coi quả n lý môi trườ ng như mộ t công cụ mang tí nh chiế n lượ c nhằ m đạ t lợ i thế cạ nh tranh . Do đó, những doanh nghiệp này đã tiến hành triển khai SXSH và hệ thống quản

34 NST đối với hang hóa xuất khẩu và tiêu dùng nội địa _TS Nguyễn Hữu Khải chủ biên

35 http://www.saga.vn/Sukiendoanhnghiep/Nghiencuutinhhuong1/5876.sagacập nhật 12:13 PM ngày 29/08/2007

lý môi trường theo bộ tiêu chuẩn ISO 14000. Không chỉ thế , để bắt nhịp được vớ i quá trì nh hộ i nhậ p đang diễ n ra , nhiề u ngà nh nhiề u doanh nghiệ p Việ t Nam đã xây dự ng cho mì nh nhữ ng chiế n lượ c phá t triể n lâu dà i , trong đó thể hiệ n rõ mố i quan tâm về các vấn đề môi trường và cả niềm tin rằng một doanh nghiệ p sả n xuấ t thân thiệ n môi trườ ng là điề u kiệ n quan trọ ng cắ t giả m chi phí và mở rộng cánh cửa thị trường .

Thứ hai, có thể dễ nhận thấy, hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới, đặc biệt tập trung chú yếu ở các thị trường Mỹ, Nhật Bản, EU. Sự xuất hiện của hàng hoá Việt Nam trên thị trường đó chứng tỏ hàng hoá của chúng ta đã phần nào đáp ứng được tiêu chuẩn thân thiện với môi trường của các quốc gia này.

Thứ ba, việc phát triển kinh tế khiến cho đời sống của người dân trong nước được cải thiện. Thay vì chỉ tiêu dùng những sản phẩm rẻ, chất lượng thấp, người dân đã bắt đầu quan tâm hơn đến vấn đề bảo vệ sức khoẻ của chính mình và vấn đề BVMT. Điều đó đang dần hình thành nên nhu cầu tiêu dùng mới ở Việt Nam tiêu dùng xanh, yếu tố cần thiết để phát triển sản phẩm TTMT ở Việt Nam.

2. Khó khăn

Mặc dù ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp sản xuất trong nước đã có nhiều cố gắng trong việc sản xuất thân thiện hơn với môi trường, nhưng con số này so với tổng số các doanh nghiệp hiện có mặt ở Việt Nam là không đáng kể. Phần lớn các doanh nghiệp còn lại bị hạn chế về nhận thức và tài chính nên vẫn chưa coi trọng đến vấn đề sản xuất và cung ứng sản phẩm TTMT.

Trong khi đó, về phía người tiêu dùng, nhận thức về vấn đề tiêu dùng xanh vẫn còn khá hạn chế. Thực tế cho thấy, chỉ có một bộ phận người tiêu dùng ở các thành phố lớn, các khu vực kinh tế - xã hội tương đối phát triển mới có xu hướng sử dụng loại sản phẩm TTMT, có nhu cầu được biết những

thông tin về các đặc tính của sản phẩm liên quan đến môi trường của loại hình sản phẩm và dịch vụ để có sự đối xử thích hợp. Còn phần đông người tiêu dùng nội địa chưa đặt vấn đề tiêu dùng sản phẩm TTMT như một nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ sức khoẻ của chính họ và BVMT.

Sự thiếu trung thực của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khi cung cấp thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác về đặc tính sản phẩm đã dẫn đến những hiểu lầm và làm mất lòng tin của người tiêu dùng. Một số sản phẩm, như đã giới thiệu ở trên, được người kinh doanh giới thiệu là “sạch và an toàn” để bán với giá cao hơn, nhưng thực chất những sản phẩm đó không đáp ứng được các tiêu chí giống như doanh nghiệp đã quảng cáo. Khi đó, nhiều người tiêu dùng có cảm giác bị lừa, và sẽ không những tẩy chay sản phẩm đó mà còn ảnh hưởng đến lòng tin của họ với những sản phẩm thân thiện với môi trường khác.

Về phía nhà nước, tuy rằng đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng môi trường, song hệ này chưa đầy đủ, cần bổ sung và quy định rõ về tiêu chuẩn chất lượng môi trường của sản phẩm.

III. Tiềm năng phát triển của sản phẩm thân thiện môi trường ở Việt Nam

Trong tương lai, việc sản xuất và tiêu dùng sản phẩm xanh sẽ không chỉ chủ yếu tập trung ở một quốc gia phát triển như Mỹ, EU, Australia… như hiện nay, mà còn phát triển ở hầu hết các quốc gia, kể cả quốc gia đang phát triển. Theo báo cáo “ triển vọng môi trường Châu Á năm 2005” của Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), trong một thập kỷ tới, châu Á – Thái Bình Dương sẽ là thị trường đầy hứa hẹn đối với sản phẩm TTMT. Đặc biệt là các sản phẩm trong lĩnh vực dệt may, nông nghiệp, vật liệu TTMT… Báo cáo cho thấy thị phần về các sản phẩm và dịch vụ không gây ô nhiễm môi trường của Châu Á sẽ tăng gấp ba lần hiện nay, đạt mức 100 tỷ USD/ năm trong 10 năm

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 01/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí