Các Mô Hình Can Thiệp Dự Phòng Lây Nhiễm Bệnh Nhiễm Trùng Đường Sinh Dục Dưới Cho Phụ Nữ Bán Dâm


10,7%. Số khỏch hàng lạ trung bỡnh/thỏng là 8,50 ± 10,27, ớt nhất là 1 và nhiều nhất là 80. Tỷ lệ phụ nữ bỏn dõm tiếp từ 1 - 9 khỏch hàng quen chiếm 62,3%, từ 10 - 19 khỏch hàng quen chiếm 25,5% và từ 20 khỏch hàng quen trở lờn chiếm 12,2%. Số khỏch hàng quen trung bỡnh/thỏng là 9,7 ± 7,52, ớt nhất là 1 và nhiều nhất là 59. Đõy chớnh là yếu tố lõy nhiễm NTĐSDD cao [18]. Một nghiờn cứu năm 2005 tại nước ngoài ghi nhận cú trường hợp một PNBD đó từng tiếp 32 khỏch làng chơi trong một ngày [149].

Tuy số lượng khỏch hàng trung bỡnh mà phụ nữ bỏn dõm phải tiếp hàng ngày khụng khỏc nhau, nhưng rừ ràng là PNBD cũng đó cú ý thức sử dụng bao cao su đối với những khỏch hàng này khỏc nhau. Đối với khỏch hàng lạ, tần suất phụ nữ bỏn dõm đó sử dụng bao cao su nhiều hơn đối với khỏch quen và họ ớt sử dụng bao cao su đối với chồng/người yờu. Tuy nhiờn, đõy cũng là một bất cập lớn vỡ chỉ cần một lần khụng sử dụng bao cao su với khỏch hàng nhiễm NTĐSDD & HIV thỡ họ cú thể nhiễm NTĐSDD và từ đú cú thể lõy truyền cho chồng/người yờu và những khỏch hàng khỏc.


Sử dụng bao cao su:

Một trong những biện phỏp dự phũng tốt nhất để trỏnh lõy lan NTĐSDD từ người nhiễm sang người khụng nhiễm là sử dụng bao cao su cho tất cả cỏc lần quan hệ tỡnh dục. Đõy là điều quan trọng nhất bởi vỡ gần như 100% phụ nữ bỏn dõm cú sử dụng bao cao su nhưng khụng phải cho tất cả số lần quan hệ tỡnh dục [13], [18], [22], [28], [80], [150]. Điều này khụng chỉ phụ thuộc vào phụ nữ bỏn dõm mà cũn phụ thuộc vào khỏch hàng. Muốn thuyết phục được những khỏch hàng khụng muốn sử dụng bao cao su khi quan hệ tỡnh dục thỡ đũi hỏi phụ nữ bỏn dõm phải cú kỹ năng giải thớch và thậm chớ phải “núi khụng” với quan hệ tỡnh dục khụng cú bao cao su [134], [135], [136], [148].


Kết quả một nghiên cứu tại Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy tỷ lệ phụ nữ bán dâm không thường xuyên sử dụng bao cao su trong tất cả các lần quan hệ với khách hàng lạ trong vòng 1 tháng qua chiếm 43,2%, với khách hàng quen 47,5%, với chồng và người yêu 82,7% [13]. Đây chính là một yếu tố rất quan trọng làm lây nhiễm NT§SDD và là một thách thức lớn trong việc phòng chống lây nhiễm NT§SDD theo đường quan hệ tình dục.

Sử dụng không thường xuyên bao cao su được xác định là yếu tố có nguy cơ nhất làm lây nhiễm NT§SDD trong nhóm phụ nữ bán dâm kể từ những năm 1980. Trong các nghiên cứu của Trung tâm Phòng chống bệnh tật Hoa Kỳ cho biết có tới 80% trường hợp nhiễm NT§SDD trong nhóm PNBD không sử dụng thường xuyên bao cao su so sánh với 2% nhiễm NT§SDD trong nhóm phụ nữ bán dâm thường xuyên sử dụng bao cao su trong các lần quan hệ tình dục với khách hàng và bạn tình [70], [71], [73]. Các nghiên cứu tại Indonesia cũng đã xác định được tỷ lệ nhiễm NT§SDD trong nhóm phụ nữ bán dâm sử dụng không thường xuyên bao cao su (<50% số lần quan hệ tình dục) là 34% (gồm 77 người) và ngược lại không phát hiện thấy trường hợp nhiễm NT§SDD nào trong nhóm 8 phụ nữ bán dâm sử dụng bao cao su thường xuyên hơn (>50% lần quan hệ tình dục) [90], [91].

Một nghiên cứu ở 3 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long năm 2006 cho thấy người quyết định sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục chủ yếu là phụ nữ bán dâm, có đến trên 70% phụ nữ bán dâm quyết định sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục và trên 50% phụ nữ bán dâm quyết định sử dụng bao cao su đối với chồng/bạn tình [13]. Như vậy có thể nói rằng nếu chỉ tập trung vào phụ nữ bán dâm để có thể nâng cao tỷ lệ sử dụng bao cao su khi hoạt động tình dục là chưa đủ mà còn cần phải tập trung vào các loại khách hàng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.


Hành vi tự nguyện đi khám và xét nghiệm NT§SDD:

Thực trạng mắc các bệnh nhiễm trùng đường sinh dục dưới ở phụ nữ bán dâm tại Trung tâm Chữa bệnh-Giáo dục-Lao động Xã hội số II Hà Nội và đánh giá hiệu quả can thiệp - 5


Thông thường phụ nữ bán dâm rất ít tự nguyện đi khám và làm xét nghiệm để chẩn đoán NT§SDD cho bản thân do mặc cảm nghề nghiệp và một phần do không biết được lợi ích cũng như không biết chỗ khám và xét nghiệm [13], [18]. Việc tự nguyện xét nghiệm NT§SDD rất có ý nghĩa trong việc phòng lây nhiễm NT§SDD cho khách hàng, cho chồng/bạn tình và cũng giúp cho phụ nữ bán dâm có thể tiếp cận được với các liệu pháp điều trị trong trường hợp nhiễm NT§SDD [18].

Một nghiên cứu ở Vĩnh Long cho thấy chỉ có 20% phụ nữ bán dâm tại tỉnh Vĩnh Long trả lời là đã được khám và xét nghiệm để chẩn đoán NT§SDD trong khi còn có đến 80% phụ nữ bán dâm chưa được khám và xét nghiệm NT§SDD [18]. Trong số người được khám và xét nghiệm NT§SDD thì tỷ lệ phụ nữ bán dâm tự nguyện đi khám và xét nghiệm NT§SDD chiếm 77,5% và chỉ có 22,5% phụ nữ bán dâm là bị bắt buộc khám và xét nghiệm NT§SDD [18].

Hiểu biết của phụ nữ bán dâm về hành vi nguy cơ của NT§SDD:

Hiểu biết về các biện pháp dự phòng lây truyền NT§SDD có thể giúp cho bản thân người phụ nữ bán dâm tránh bị nhiễm NT§SDD và hạn chế lây truyền cho khách hàng trong trường hợp họ đã nhiễm NT§SDD. Một nghiên cứu tại các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy tỷ lệ phụ nữ bán dâm hiểu biết được rằng sử dụng bao cao su có thể phòng lây nhiễm NT§SDD là rất cao, chiếm 99,5% [13]. Tuy nhiên, từ việc hiểu biết phải được gắn thực hành một cách nghiêm túc, nghĩa là phải sử dụng bao cao su cho tất cả các lần quan hệ tình dục mới là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho phụ nữ bán dâm không bị nhiễm NT§SDD từ khách hàng và ngược lại. Trên thực tế từ hiểu biết về sử dụng bao cao su đến thực hành thường có một khoảng cách rất lớn, mặc dù 99,5% phụ nữ bán dâm hiểu, nhưng chỉ có 56,8% phụ nữ bán dâm sử dụng bao cao su cho tất cả các lần quan hệ tình dục với khách hàng lạ; và chỉ


có 52,5% phụ nữ bán dâm sử dụng bao cao su cho tất cả các lần quan hệ tình dục với khách hàng quen [13].

Một số nghiên cứu gần đây trên thế giới và Việt Nam cũng chứng minh được rằng có một khoảng cách lớn giữa hiểu biết và thực hành sử dụng bao cao su để phòng tránh thai, phòng tránh lây truyền HIV và bệnh lây truyền qua đường tình dục [18], [86], [87], [92], [94], [100].

Tại Việt Nam, nghiên cứu tại Vĩnh Long cho thấy tỷ lệ phụ nữ bán dâm hiểu biết được rằng có ít bạn tình có thể hạn chế lây nhiễm NT§SDD là rất thấp, chiếm 14% và có đến 86% phụ nữ bán dâm không cho rằng có ít bạn tình là có thể hạn chế được lây nhiễm NT§SDD [18]. Tỷ lệ phụ nữ bán dâm hiểu biết được rằng chung thuỷ 1 bạn tình có thể hạn chế lây nhiễm NT§SDD là rất thấp, chiếm 22,5% và có đến 77,5% phụ nữ bán dâm không cho rằng chung thuỷ 1 bạn tình là có thể hạn chế được lây nhiễm NT§SDD [18]. Tỷ lệ phụ nữ bán dâm hiểu biết được rằng hạn chế sinh hoạt tình dục bừa bãi có thể hạn chế lây nhiễm NT§SDD chiếm 38,5% và có đến 61,5% phụ nữ bán dâm không cho rằng hạn chế sinh hoạt tình dục bừa bãi là có thể hạn chế được lây nhiễm NT§SDD [18]. Điều này là hoàn toàn phù hợp với thực tế vì đã là phụ nữ bán dâm thì số lượng khách hàng chính là nguồn thu nhập của họ. Do vậy, mặc dù hiểu biết nhưng họ vẫn thực hành kém hơn với mục đích là thu được nhiều tiền.

Do vậy, dù có hiểu hay không hiểu về việc hạn chế quan hệ tình dục hoặc chung thuỷ với một bạn tình để đề phòng nhiễm NT§SDD, thì họ vẫn phải quan hệ tình dục để kiếm tiền. Một số kết quả nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh được rằng sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục là biện pháp quan trọng hơn nhiều để đề phòng lây truyền NT§SDD so với việc hạn chế sinh hoạt tình dục [103], [105], [112], [113]. Tuy vậy, đối với các đối tượng


khác không phải là PNBD thì chung thuỷ với bạn tình và hạn chế quan hệ tình dục bừa bãi chính là những biện pháp có hiệu quả nhằm hạn chế lây truyền NT§SDD [93], [104].

Một nghiên cứu gần đây đã chứng minh được rằng những phụ nữ bán dâm không có đủ kiến thức phòng chống NT§SDD có nguy cơ nhiễm NT§SDD cao gấp 2,2 lần những phụ nữ bán dâm có đủ kiến thức phòng chống NT§SDD (8,9 % so với 4,2%) [18].


1.4. Các mô hình can thiệp dự phòng lây nhiễm bệnh nhiễm trùng đường sinh dục dưới cho phụ nữ bán dâm

1.4.1. Chương trình truyền thông thay đổi hành vi

Mục đích chủ yếu của chương trình truyền thông thay đổi hành vi nhằm nâng cao nhận thức, kiến thức, hiểu biết về lây truyền NTĐSDD và các biện pháp phòng chống cho mọi người dân, và những nhóm người có hành vi nguy cơ cao, đặc biệt là PNBD. Truyền thông thay đổi hành vi tiếp cận chủ yếu tới đối tượng có hành vi nguy cơ cao, khác với truyền thông đại chúng là cho mọi người dân trong cộng đồng [82], [84], [98], [99]. Truyền thông thay đổi hành vi còn cung cấp thông tin về các dịch vụ liên quan đến dự phòng lây truyền NTĐSDD cũng như cách tiếp cận các dịch vụ cung cấp phương tiện hỗ trợ thay đổi và duy trì các hành vi an toàn: quan hệ tình dục sử dụng bao cao su, phòng chống sử dụng ma túy và vệ sinh cá nhân [100], [102].


1.4.2. Chương trình khuyến khích sử dụng 100% bao cao su

Chương trình khuyến khích sử dụng 100% bao cao su trong quan hệ tình dục (gọi tắt là chương trình 100% bao cao su) không chỉ đơn thuần là việc cung cấp sử dụng bao cao su mà nó bao gồm nhiều thành tố từ việc nâng cao nhận thức của người dân về chương trình này, phân phối bao cao su, giáo dục đồng đẳng và khám chữa bệnh lây truyền qua đường tình dục và nhiễm


trùng đường sinh sản [80], [94], [97], [131]. Mục tiêu của chương trình là nhằm phòng và giảm lây nhiễm HIV và các bệnh NTĐSDD là có hiệu quả với chi phí thấp. Do có lịch sử dài lâu hơn của bao cao su với chương trình kế hoạch hóa gia đình nên hoạt động phổ biến, cung ứng bao cao su nói chung và chương trình tiếp thị xã hội bao cao su nói riêng có một môi trường pháp lý khá thuận lợi. Chương trình 100% bao cao su được nhiều nước áp dụng và người ta đã chứng minh là có kết quả tốt. Thái Lan đã xây dựng và đẩy mạnh chương trình sử dụng 100% bao cao su trong các cơ sở có hoạt động mại dâm. Năm 1989, chương trình được thử nghiệm lần đầu tiên và triển khai trên toàn quốc vào năm 1991. Kết quả tỷ lệ sử dụng bao cao su tăng lên một cách nhanh chóng: từ 14% năm 1989 lên đến hơn 90% năm 1994, số ca mắc các bệnh NTĐSDD trên phạm vi toàn quốc giảm mạnh từ 410.406 ca năm 1987 xuống còn 27.362 ca năm 1994. Tỷ lệ nhiễm HIV giảm trong hầu hết các nhóm như phụ nữ mang thai (từ 2,35% xuống còn 1,18% trong vßng 5 năm) [131].


1.4.3. Chương trình quản lý bệnh NTĐSDD

Người mắc các bệnh NTĐSDD có khả năng bị nhiễm HIV cao hơn người bình thường 2 - 9 lần. Hơn nữa, các bệnh lây truyền qua đường tình dục là một chỉ số quan trọng về sự lây nhiễm HIV. Ngoài ra, các bệnh lây truyền qua đường tình dục phản ánh được hành vi nguy cơ gần đây một cách tương đối chính xác hơn dữ liệu về tỷ lệ hiện nhiễm HIV bởi vì các bệnh lây truyền qua đường tình dục tồn tại trong khoảng thời gian tương đối ngắn. Do vậy, việc phát hiện và điều trị sớm các bệnh lây truyền qua đường tình dục không chỉ có ý nghĩa làm hạn chế lây nhiễm HIV qua đường tình dục mà còn có ý nghĩa trong quản lý, giám sát tình trạng nhiễm NTĐSDD trong một quần thể dân cư nhất định. Tuy nhiên hiện nay, rất nhiều bệnh nhân mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục khám và chữa bệnh tại các cơ sở y tế tư nhân,


trong khi điều kiện xét nghiệm HIV cũng như việc theo dõi, điều trị bệnh triệt để là rất khó khăn [3]. Việc giới thiệu bệnh nhân đến các cơ sở có điều kiện xét nghiệm không phải lúc nào cũng thực hiện được do rất nhiều lý do. Sự phối hợp hoạt động giữa các cơ sở y tế công và y tế tư nhân còn rất yếu. Tại phần lớn các cơ sở y tế tư nhân, kết quả điều trị không thể kiểm soát được, tài liệu truyền thông không có, hoạt động tư vấn rất hạn chế [32].

Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới ở Việt Nam khoảng có 1 triệu người mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục [142]. Năm 2000 tổng số xét nghiệm chỉ thực hiện được trên 81.000 trường hợp, dưới 10% tổng số có thể mắc bệnh [144], [145], [146]. Khi mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục sẽ làm tăng nguy cơ lây truyền HIV từ 2 - 9 lần [97], [147], [149]. Hơn nữa, một người nhiễm HIV dễ bị nhiễm STI hơn do sức đề kháng giảm làm cho việc điều trị STI cũng phức tạp hơn rất nhiều. Nghiên cứu trên thực địa cho thấy rằng kiểm soát tốt STI sẽ làm giảm số người mới mắc HIV [113], [114], [115].


1.4.4. Chương trình giáo dục đồng đẳng

Chương trình giáo dục đồng đẳng được hiểu là “sự chia sẻ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm sống giữa những người đồng đẳng, những người cùng chung một vài đặc điểm kinh tế xã hội nào đó như lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tôn giáo, sở thích nhằm thay đổi hành vi của người đồng đẳng” chương trình giáo dục đồng đẳng hiện còn được gọi là chương trình tiếp cận cộng đồng. Tại nhiều quốc gia, khi nguồn lực có hạn và hành lang pháp lý không ủng hộ cho chương trình trao đổi bơm kim tiêm hay chương trình 100% bao cao su, người ta đã triển khai các chương trình giảm thiểu tác hại như giáo dục đồng đẳng. Giáo dục đồng đẳng là việc tổ chức một nhóm người có thể là phụ nữ bán dâm, nghiện chích ma tuý, những người có cùng cảnh


ngộ thành một nhóm để giáo dục cho các đối tượng cùng cảnh ngộ về các biện pháp dự phòng NTĐSDD. Nhóm này chịu trách nhiệm tổ chức các buổi nói chuyện, tuyên truyền về phòng chống NTĐSDD, phân phát tài liệu truyền thông, bao cao su hay bơm kim tiêm [13], [18], [60], [63], [64].


1.4.5. Cỏc chương trỡnh phũng và chống cỏc nhiễm trựng đường sinh sản tại Việt Nam

Mục tiêu

Trong từng giai đoạn xây dựng và phát triển của ngành y tế Việt Nam, Bộ Y tế đều đề xuất những mục tiêu nhằm phòng và chống các nhiễm trùng qua đường tình dục. Rõ rệt nhất là từ năm 2001 đến nay, các mục tiêu phòng chống bệnh nhiễm trùng đường sinh dục được đề ra thông qua các chiến lược chăm sóc sức khỏe sinh sản và phòng chống HIV/AIDS [5].

Có khá nhiều các chính sách khác nhau về kiểm soát và dự phòng RTIs/STIs được soạn thảo. Các chính sách này đề cập trong 2 lĩnh vực chính là SKSS và dự phòng HIV/AIDS.

Trong chiến lược quốc gia về Dân số và Sức khỏe sinh sản (DS/SKSS) giai đoạn 2011 - 2020, mục tiêu phòng và kiểm soát STIs/RTIs đã được đề cập trong mục tiêu số 4: Dự phòng hiệu quả nhằm giảm tỷ lệ, và điều trị hiệu quả RTIs/STIs bao gồm cả HIV và các vấn đề liên quan đến vô sinh.

Mục tiêu cụ thể của mục tiêu chung số 4 chỉ rõ giảm 50% tỷ lệ mắc RTIs và giảm 30% tỷ lệ mắc STIs. Lồng ghép điều trị RTIs/STIs với hệ thống chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em/ kế hoạch hóa gia đình (BMTE

/KHHGĐ) được coi là chiến lược quan trọng nhằm đạt mục tiêu, hy vọng rằng với cơ sở y tế đầy đủ và nhân lực thích hợp cho chẩn đoán và điều trị các

Xem tất cả 195 trang.

Ngày đăng: 08/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí