Một Số Yếu Tố Ảnh Hưởng Và Hành Vi Nguy Cơ Đến Bệnh Ntđsdd Ở Phụ Nữ Bán Dâm


1.3.2. Một số yếu tố ảnh hưởng và hành vi nguy cơ đến bệnh NTĐSDD ở phụ nữ bán dâm

Việc phõn tớch các yếu tố liên quan có ý nghĩa quan trọng trong thiết kế các chương trình can thiệp phòng chống bệnh tật nói chung cũng như phũng chống cỏc bệnh NTĐSDD. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cỏc bệnh NTĐSDD như cỏc đặc trưng cỏ nhõn, đặc biệt là các yếu tố về kiến thức, thỏi độ và hành vi vệ sinh, quan hệ tình dục, kinh tế xó hội, tập quỏn. Đối với PNBD thỡ kỹ năng thương thuyết sử dụng bao cao su với khỏch hàng là rất quan trọng.

Tuổi:

Tại Tõy Ban Nha, trong vòng 9 năm (1993-2002) tỷ lệ mắc bệnh NTĐSDD ở vị PNBD từ 3,6% - 13,3% và ở PNBD cũng gia tăng nhanh chóng, từ 25% - 50% [101].

Một nghiên cứu tại California (Mỹ) cho thấy tuổi là một yếu tố nguy cơ quan trọng của bệnh NTĐSDD vị thành niên. Trong số 3.579 vị thành niên đã có hoạt động tình dục và có sử dụng rượu hoặc ma tuý thì vị thành niên càng trẻ tuổi càng có nguy cơ mắc bệnh NTĐSDD hơn các vị thành niên lớn tuổi [107]. Nguy cơ nhiễm NTĐSDD cũng tương tự cho PNBD cú lứa tuổi trẻ hơn [106]. Những nghiên cứu này đưa ra khuyến cáo nên giám sát thường xuyên các bệnh NTĐSDD ở vị thành niên và PNBD nhằm chẩn đoán sớm, điều trị kịp thời và có các biện pháp dự phòng hữu hiệu các bệnh nhiễm trùng NTĐSDD cho vị thành niên và PNBD và từ đó có thể làm giảm tỷ lệ mắc NTĐSDD cho cộng đồng.

Nghiên cứu của Bệnh viện Da liễu Trung ương năm 2003-2005 và một số nghiên cứu khác cho thấy những phụ nữ từ 20 tuổi trở lên có xu hướng mắc bệnh cao hơn những người dưới 19 tuổi. Đối với bệnh do Trichomnas vaginalis


gây ra, phụ nữ độ tuổi từ 40 - 49 có tỷ lệ cao gấp 5 - 8 lần những phụ nữ ở

độ tuổi dưới 19. Phụ nữ 20 - 39 tuổi có tỷ lệ nhiễm Candida, viêm âm đạo, viêm CTC cao hơn các nhóm khác [54], [55].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.

Nhiều nghiên cứu khác trong nước cũng cho thấy các nhóm tuổi khác nhau có tỉ lệ mắc bệnh khác nhau. Viêm âm đạo do vi khuẩn, Trichomnas vaginalis tăng lên theo tuổi. Viêm cổ tử cung cao nhất trong nhóm tuổi 25 -

34. Viêm nhiễm tiểu khung cao nhất trong nhóm tuổi 35 - 44 tuổi. Viêm âm

Thực trạng mắc các bệnh nhiễm trùng đường sinh dục dưới ở phụ nữ bán dâm tại Trung tâm Chữa bệnh-Giáo dục-Lao động Xã hội số II Hà Nội và đánh giá hiệu quả can thiệp - 4

đạo do vi khuẩn không đặc hiệu cao nhất ở nhóm 45 - 55 tuổi [46], [48].


Một nghiên cứu tại một số tỉnh/thành phớa Bắc cho thấy mối liên quan giữa tuổi giới với NTĐSDD/HIV [22]. NTĐSDD/HIV có mối liên quan với độ tuổi và giới của đối tượng PNBD. NTĐSDD/HIV gặp nhiều nhất ở nhóm tuổi 30 - 39 (13,9%), sau đến nhóm tuổi 20 - 29 (9,1%). So với nhóm tuổi dưới 20 (nhóm có tỷ lệ NTĐSDD/HIV thấp nhất). Tỷ lệ NTĐSDD/HIV ở nhóm tuổi 30 - 39 là cao nhất gấp 16,2 lần, nhóm 20 - 29 tuổi gấp 10,7 lần, nhóm tuổi trên 40 là 9,1 lần, có ý nghĩa thống kê (p< 0,05).

NTĐSDD/HIV tập trung ở đối tượng lao động rất trẻ, tập trung chủ yếu ở nhóm 20 - 29 tuổi trong đó nhóm 20 - 24 tuổi có tỷ lệ nhiễm NTĐSDD/HIV cao nhất [18], [24]. Nhiễm HIV ở dưới 20 tuổi chiếm tỷ lệ 1%.

Nghiên cứu trên đối tượng GSTĐ tại Hà Nội cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HIV/AIDS cao nhất ở độ tuổi 20 - 29, đến độ tuổi 30 - 39, thấp nhất ở độ tuổi trên 40 [7]. Như vậy, nhiễm HIV/AIDS tập trung ở nhóm tuổi trẻ, đây là tuổi đóng góp cho xã hội sức lao động và năng lực cao nhất trong cuộc

đời của mỗi người. Hiện nay ở nước ta nhiễm HIV/AIDS vẫn phổ biến ở đối tượng nam NCMT.


Nhiều nghiên cứu đều thấy tỷ lệ nhiễm HIV gặp ở nam nhiều hơn ở nữ một cách có ý nghĩa thống kê [13], [18]. Nhiễm HIV/AIDS gặp ở nam giới gấp 6,6 lần, dao động từ 4,3 đến 10 lần so với nữ giới có ý nghĩa thống kê (p<0,05) [13], [18]. Nghiên cứu trên đối tượng tham vấn tự nguyện cho thấy nhiễm HIV ở nam gấp 2,74 lần so với nhiễm HIV ở nữ. Nam giới có nhiều yếu tố nguy cơ nhiễm HIV và bệnh lây truyền qua đường tình dục (LTQĐTD) nhiều hơn so với nữ giới.

Nghiên cứu ở Hải Phòng cũng cho thấy những người ở độ tuổi càng cao, càng có nguy cơ mắc giang mai cao, nhóm tuổi 30 - 39 có tỷ lệ mắc giang mai là thấp nhất (0,2%), tỷ lệ mắc cao nhất ở nhóm tuổi trên 40 (5,0%) [12]. Tỷ lệ mắc lậu có xu hướng tăng dần theo độ tuổi từ 2% ở nhóm dưới 20 tuổi, lên 3% ở nhóm tuổi 20 - 29, lên 4,1% ở nhóm tuổi trên 40. Nghiên cứu tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, tỷ lệ mắc bệnh lậu cao nhất tập trung vào nhóm tuổi 21 - 30. Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu trên

đối tượng GSTĐ tại Hà Nội năm 2003 của Bệnh viện Da liễu Trung ương năm 2005 [54].


Trình độ học vấn:

Trình độ học vấn (TĐHV) có liên quan đến bệnh NTĐSDD/HIV trong

số những PNBD cũng như phụ nữ bình thường khác đã được một số nghiên cứu

đề cập đến [12], [16], [23], [81], [85]. Tỷ lệ mắc các bệnh NTĐSDD

thường cao ở nhóm có trình độ học vấn thấp và nghề nghiệp không ổn

định. Đây là vấn đề khó khăn trong giáo dục thay đổi hành vi. Thực tế cho thấy ở nhóm có TĐHV thấp thì hiểu biết về NTĐSDD nghèo nàn và thường có quan hệ tình dục không an toàn hoặc tiêm chích không an toàn nên có nguy cơ nhiễm HIV và bệnh NTĐSDD rất cao.


Nghề nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng liên quan đến các bệnh NTĐSDD và HIV, tỷ lệ người mắc bệnh là công nhân, nghề tự do, buôn bán lần lượt là 14,7%; 13,1% và 13,1%; học sinh sinh viên (HSSV) chiếm 8,4% [13], [18]. Trong 1 nghiên cứu tại 3 tỉnh đồng bằng sụng Cửu Long (ĐBSCL) cho thấy đối tượng có học vấn thấp (từ trung học cơ sở trở xuống có tỷ lệ nhiễm HIV cao gấp 3,9 lần so với đối tượng có học vấn từ trung học phổ thông trở lên (p<0,05) [13]. Một nghiờn cứu khác cho thấy nguy cơ nhiễm HIV ở nhóm có TĐHV thấp gấp 3,06 lần so với nhóm có TĐHV cao [18]. Nhiều nghiên cứu khác cho thấy, trình độ học vấn ở nhóm PNBD rất thấp trong đó tỷ lệ mù chữ rất cao [12], [26], [28]. ở những đối tượng, này các thông tin truyền thông thay đối hành vi rất khó tiếp cận nhất là ở đối tượng mù chữ.

Hành vi nguy cơ NTĐSDD ở phụ bán dâm:

Quan hệ tỡnh dục khụng an toàn là nguy cơ lõy nhiễm HIV/NTĐSDD, tại cỏc quốc gia cú tỷ lệ nhiễm HIV và cỏc bệnh NTĐSDD cao, nguyờn nhõn chớnh là do tỷ lệ dựng bao cao su (BCS) trong quan hệ tỡnh dục rất thấp. Ở Campuchia, NTĐSDD trong nhúm PNBD ở một số vựng rất cao, trờn 50% [137]. Khi tỷ lệ NTĐSDD trong phụ nữ bỏn dõm cao thỡ sự lõy nhiễm sang khỏch mua dõm trở nờn dễ dàng hơn, khỏch hàng thường xuyờn của PNBD này lại lõy nhiễm cho cỏc PNBD khỏc.

Trong một nghiờn cứu tại cỏc tỉnh phớa Nam cho thấy cú 65% phụ nữ bỏn dõm khụng sử dụng bao cao su khi quan hệ tỡnh dục, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhúm này là 5,2% và tỷ lệ NTĐSDD chiếm rất cao (trờn 80%) [40]. Đặc biệt ở An Giang, một tỉnh biờn giới với Campuchia, tỷ lệ nhiễm HIV lờn tới 9,5% [44]. Hiện nay vẫn tồn tại một khoảng cách giữa hiểu biết và thực hành sử dụng bao cao su. Theo kết quả nghiờn cứu chương trỡnh giỏm sỏt hành vi năm 2000 và một số nghiên cứu gần đây đó chỉ ra rằng kiến thức về sử dụng


bao cao su phòng lây NT§SDD khá cao trong nhóm phụ nữ bán dâm: 89% - 100%, nhưng tỷ lệ sử dụng và mức độ thường xuyên sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục thấp hơn nhiều và khác biệt đáng kể theo từng loại bạn tình [13], [18]. Tỷ lệ thường xuyên sử dụng bao cao su với khách lạ thấp hơn đáng kể, dao động từ 32% tại Hà Nội tới 79% tại Hải Phòng [28], [52], [53]. Ngoài hành vi không sử dụng bao cao su cho tất cả các lần quan hệ tình dục, nhóm PNBD còn có tỷ lệ khá cao sử dụng và tiêm chích ma túy: 16% - 22% phụ nữ bán dâm đường phố tiêm chích ma túy [13], [18].

Bệnh NT§SDD trong nhóm PNBD là một yếu tố quan trọng trong lây nhiễm HIV. Những người PNBD có tiền sử bị giang mai hoặc các bệnh NT§SDD và những phụ nữ tiêm chích ma túy có 3 bạn tình trở lên trong 6 tháng gần đây sẽ có khả năng nhiễm HIV cao. Trong nhóm PNBD nghiện chích ma túy thì có nguy cơ nhiễm HIV rất cao vì họ không chỉ nhiễm HIV qua đường tình dục mà còn nhiễm theo đường tiêm chích. Nhiễm HIV cần hai yếu tố hành vi nguy cơ là bạn tình hoặc bạn chích bị nhiễm. Nguy cơ bị nhiễm HIV phụ thuộc vào xác suất của lần quan hệ tình dục với người nhiễm HIV. Không chỉ có hành vi tiêm chích không an toàn và tình dục mới có khả năng dự báo nguy cơ nhiễm HIV, mà trạng thái nguy cơ của bạn tình hoặc bạn chích cũng có vai trò dự báo nguy cơ này. Người ta ước tính rằng một người NCMT có liên hệ với một mạng lưới các cá thể có nguy cơ cao: ví dụ dùng chung ma túy với một người có tần số tiêm chích trên 1 lần một ngày hoặc một người có tuổi đời dài hơn người đó 10 năm (nghĩa là những người có nguy cơ nhiễm trong quá khứ lớn hơn) thì có tỷ lệ nhiễm HIV gấp 2 lần (43% so với 18%) so với những cá thể có nguy cơ thấp khi đã khống chế một số các yếu tố như dùng chung bơm kim tiêm (BKT), chủng tộc, khu vực sinh sống, tiêm chích tại tụ điểm và hành vi tình dục không an toàn [46], [60].


Nhiễm HIV tập trung trong nhóm nguy cơ gọi là “tái nhiễm trùng” (pockets of infection), đặc biệt đối với những khu vực có tỷ lệ nhiễm HIV tương đối thấp. Khả năng nhiễm HIV sẽ được dự báo bằng việc phơi nhiễm với những cá thể trong nhóm có tỷ lệ nhiễm HIV cao hơn chứ không phải dự báo qua các hành vi nguy cơ cụ thể của cá nhân [45]. Các mẫu huyết thanh được thu thập liên tục từ 6.882 người nghiện chích ma túy (NCMT) ở khu vực có tỷ lệ nhiễm HIV cao và thấp được so sánh về tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh dương tính với HIV, ở các thành phố có tỷ lệ nhiễm HIV cao thì xác suất một người NCMT phơi nhiễm với một bạn tình hoặc một bạn chích nhiễm HIV là cao hơn do vậy chỉ cần các biến số về hành vi như tiêm chích dùng bơm kim tiêm bẩn hoặc tình dục không an toàn sẽ dự báo được tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh [45]. Kết quả này vẫn đúng cho các yếu tố tiếp xúc mà bản thân nó không phải là yếu tố nguy cơ cao trong lây nhiễm HIV, ví dụ như tiêm chích ngoài các tụ điểm, ở trong các trung tâm cai nghiện và quan hệ đồng tính ở nữ giới [147], [151]. Vì vậy các can thiệp dự phòng lan truyền HIV ở các khu vực có tỷ lệ nhiễm không cao cần phải quan tâm tới các nhóm quần thể có tỷ lệ nhiễm HIV tương đối cao trong khu vực đó, thường là những nhóm có đặc thù riêng trong khu vực. Để có thể giám sát được chiều hướng dịch HIV nói chung trên quần thể toàn bộ và trong nhóm nghiện chích ma túy nói riêng, các quốc gia đã thiết lập các hệ thống giám sát HIV/AIDS chặt chẽ [8], [9], [59], [61], [67], [70], [71], [72], [73].


Tuổi quan hệ tình dục lần đầu và thời gian hoạt động mại dâm:

Tuổi quan hệ tình dục cũng là một hành vi nguy cơ của lây nhiễm NT§SDD. Một số nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy những PNBD nhỏ tuổi quan hệ tình dục sớm, chưa có khả năng hiểu biết đầy đủ về nguy cơ lây nhiễm NT§SDD thì rất dễ bị nhiễm NT§SDD [13], [18], [74], [75]. Điều này


là hợp lý vì những phụ nữ rất trẻ hoàn toàn ít có hiểu biết và kinh nghiệm để có thể thỏa thuận và thuyết phục khách hàng sử dụng BCS khi quan hệ tình dục. Đặc biệt một số trẻ em bị bắt buộc quan hệ tình dục thì không thể có cơ hội để lựa chọn khách hàng có sử dụng hay không sử dụng bao cao su [69], [76].

Quan hệ tình dục quá sớm là một trong những yếu tố rất quan trọng góp phần lây lan NT§SDD không chỉ ở nước ta mà còn ở các nước khác trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển [41], [78], [79].

Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Mạnh Cường năm 2008 trên phụ nữ bán dâm tại 3 tỉnh An Giang, Kiên Giang và Đồng Tháp thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. Tác giả cho biết tuổi quan hệ tình dục lần đầu trung bình của phụ nữ bán dâm là 19,2 tuổi và không có sự khác biệt mang ý nghĩa thống kê giữa phụ nữ bán dâm đường phố và nhà hàng (19,3 tuổi và 19,2 tuổi) [13].

Thời gian hoạt động mại dâm bán dâm càng dài thì nguy cơ lây nhiễm NT§SDD & HIV càng cao. PNBD có thời gian hoạt động mại dâm dài có nghĩa là họ phải tiếp xúc với nhiều loại khách hàng, bao gồm cả những khách hàng đã nhiễm NT§SDD & HIV [13], [18]. Một nghiên cứu tại 3 tỉnh ĐBSCL chia thời gian hoạt động mại dâm theo 2 mức: ≤6 tháng và >6 tháng, phần lớn phụ nữ bán dâm đều đã hoạt động mại dâm bán dâm ≤6 tháng (87,2%) và chỉ có 12,8% PNBD là đã hoạt động mại dâm >6 tháng [13].

Hoạt động mua và bán dâm tại nước ngoài như tại Campuchia và tại những tỉnh có tỷ lệ nhiễm HIV cao trong quần thể có nguy cơ như ở An Giang hoặc thành phố Hồ Chí Minh cũng là một hành vi nguy cơ dễ mắc NT§SDD & HIV. Một nghiên cứu ở Vĩnh Long cho thấy có 1,5% phụ nữ bán dâm đã có thời gian hoạt động mại dâm ở ngoài nước như Campuchia hoặc Malaysia và 31,2% đã có hoạt động mại dâm ngoài tỉnh Vĩnh Long [18]. Một trong những


đặc điểm của PNBD là tính chất di biến động của họ, do mặc cảm với nghề nghiệp của mình nên họ không muốn sống ở một nơi cố định trong thời gian dài. Mặt khác họ cũng phải di chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác, huyện này sang huyện khác phụ thuộc vào lượng khách hàng và tăng thu nhập cho bản thân [18]. Đặc biệt trong giai đoạn toàn cầu hoá hiện nay, du lịch phát triển, điều kiện đi lại dễ dàng nên việc hoạt động mại dâm ở nước ngoài cũng không phải là chuyện khó khăn đối với phụ nữ bán dâm.


Số lượng khách hàng trung bình/tháng:

Số lượng khách hàng trung bình/tháng là một trong những hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dục cho phụ nữ bán dâm và ngược lại. Đối với những phụ nữ bán dâm sử dụng bao cao su cho tất cả các lần quan hệ tình dục thì số lượng khách hàng trung bình dù nhiều hay ít không quan trọng lắm, nhưng đối với phụ nữ bán dâm không sử dụng bao cao su cho tất cả các lần quan hệ tình dục với khách hàng thì đây là một hành vi nguy cơ cao lây truyền NT§SDD & HIV [13], [18]. Một nghiên cứu tại 3 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long cho thấy số bạn tình trung bình của PNBD là 18,9 người/tháng. Nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt về số bạn tình trung bình giữa phụ nữ bán dâm đường phố và nhà hàng (14,3 người và 23,1 người), một nửa (50%) phụ nữ bán dâm có trên 11 bạn tình/tháng và 50% phụ nữ bán dâm có dưới 11 bạn tình/tháng [13].

Số lượng khách hàng lạ và quen cũng là một yếu tố nguy cơ lây nhiễm NT§SDD & HIV. Một số nghiên cứu đã chứng minh được rằng tiếp nhiều khách hàng lạ cũng là một yếu tố nguy cơ cao lây nhiễm NT§SDD & HIV [13], [18]. Một nghiên cứu ở Đồng bằng Sông Cửu Long cho thấy trong vòng 1 tháng qua, tỷ lệ phụ nữ bán dâm tiếp từ 1 - 9 khách hàng lạ chiếm 68%, từ 10 - 19 khách hàng lạ chiếm 21,3% và từ 20 khách hàng lạ trở lên chiếm

Xem tất cả 195 trang.

Ngày đăng: 08/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí