quan đến việc xác định thuế gtgt đầu vào, đầu ra ( mẫu số 02/GTGT,03/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 120/2003/TT-BTC). Riêng với hàng hóa, dịch vụ mua vào có sử dụng chứng từ đặc thù ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì sử dụng Bảng kê mẫu số 05/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 120/2003/TT- BTC).
Bảng kê các hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở như quy định gồm các nội dung: Số, ngày hợp đồng xuất khẩu hàng hóa,dịch vụ ký với nước ngoài; Số, ngày hợp đồng mua hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ của phía nước ngoài thanh toán bù trừ với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu; Số, ngày tờ khai xuất khẩu của hàng hoá xuất khẩu; Số, ngày Tờ khai nhập khẩu của hàng hoá nhập khẩu mua của phía nước ngoài thanh toán bù trừ với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu; Số, ngày văn bản xác nhận với phía nước ngoài về số tiền thanh toán bù trừ giữa hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu với hàng hoá nhập khẩu, dịch vụ mua của phía nước ngoài.
Trường hợp sau khi thanh toán bù trừ giữa giá trị hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu và giá trị hàng hoá dịch vụ nhập khẩu có chênh lệch, số tiền chênh lệch phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng, cơ sở kinh doanh phải kê trong Bảng kê kèm theo về số, ngày, chứng từ thanh toán qua ngân hàng, số tiền thanh toán.
Trường hợp cơ sở kinh doanh sản xuất, gia công hàng xuất khẩu thanh toán theo phương thức bù trừ với hàng nhập theo hợp đồng dài hạn với phía nước ngoài, thì cơ sở kinh doanh phải đăng ký với cơ quan Thuế về hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu, kế hoạch thanh toán , định kỳ cơ sở phải có văn bản xác nhận về số lượng, giá trị hàng hoá đã thanh toán bù trừ với phía nước ngoài.
Trường hợp hàng hoá xuất khẩu tại chỗ. Hồ sơ gồm: Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nêu rõ lý do hoàn thuế, số thuế đề nghị hoàn, thời gian hoàn (theo mẫu số 10/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 120/2003/TT-BTC); Bảng kê khai tổng hợp số thuế phát sinh đầu ra, số thuế đầu vào được khấu trừ, số thuế đã nộp ( nếu có), số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra đề nghị hoàn lại; Bảng kê hàng hoá, dịch vụ mua vào, bán ra trong kỳ liên quan đến việc xác định thuế GTGT đầu vào, đầu ra ( mẫu số 02/GTGT,03/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 120/2003/TT-
BTC). Riêng với hàng hóa, dịch vụ mua vào có sử dụng chứng từ đặc thù ghi giá thanh toán là giá đã có thuế GTGT thì sử dụng Bảng kê mẫu số 05/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 120/2003/TT-BTC); Bảng kê các hồ sơ có chữ ký và đóng dấu của cơ sở đầy đủ các nội dung: Số, ngày Hợp đồng xuất khẩu tại chỗ ký với phía nước ngoài; Số, ngày tờ khai hải quan hàng hoá xuất nhập khẩu tại chỗ; Số,ngày, số tiền của chứng từ thanh toán tiền hàng hoá xuất khẩu tại chỗ qua ngân hàng.
Trường hợp các cơ sở kinh doanh khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản có thuế GTGT nộp thừa. Hồ sơ gồm: Công văn đề nghị hoàn thuế GTGT nộp thừa vào ngân sách nhà nước; Quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu,giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước của các cấp có thẩm quyền; Quyết toán thuế GTGT đến thời điểm sáp nhập, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu, giao, bán. khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. (5)
Có thể bạn quan tâm!
-
Thực trạng kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp - 2
-
Hoá Đơn, Chứng Từ Sử Dụng Trong Thuế Kê Khai Và Nộp Thuế Gtgt
-
Thực trạng kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp - 4
-
Thực trạng kê khai và nộp thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay. Nguyên nhân và giải pháp - 6
-
Bán Hàng Không Lập Hóa Đơn, Không Kê Khai Doanh Thu
-
Tổ Chức Quản Lý Việc Thực Thi Luật Thuế Giá Trị Gia Tăng Thiếu Hợp Lý
Xem toàn bộ 119 trang tài liệu này.
Tiểu kết
Qua chương 1 này, người viết hy vọng các độc giả đã có được những hình dung tổng quát về thuế giá trị gia tăng và Luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam. Với những kiến thức nền tảng về thuế Luật thuế giá trị gia tăng, người đọc sẽ dễ dàng nắm bắt đầy đủ và sâu sắc những thông tin về thực trạng thực thi Luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay được giới thiệu ở chương 2.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KÊ KHAI VÀ NỘP THUẾ GTGT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG NÀY
Trong chương 2 này, người viết xin được tổng quát thực trạng tình hình thực hiện Luật thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay, đưa ra những dẫn chứng cho thực trạng này để người đọc nắm được thực trạng của Việt Nam trong việc áp dụng Luật thuế GTGT. Người viết cũng dẫn chứng ra đây những hành vi gian lận của các doanh nghiệp. Từ đó, tìm hiểu những nguyên nhân của thực trạng này nhằm đưa ra các biện pháp giải quyết được giới thiệu trong chương 3.
I. Khái quát về thực trạng áp dụng luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nayTừ rất lâu, thuế đã trở thành nguồn thu chủ yếu của các bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước bao gồm các cơ quan hành chính sự nghiệp, không sản xuất ra sản phẩm. Do đó để đảm bảo cho bộ máy đó tồn tại và phát triển thì phải có một nguồn thu. Nguồn thu này nhằm nuôi dưỡng bộ máy quản lý nhà nước và các cơ quan hành chính sự nghiệp như giáo dục, y tế, các bộ, ngành chức năng và phục vụ xây dựng các công trình phúc lợi xã hội như đường sá, công viên, trồng cây xanh. Thực tế lịch sử cho thấy, các quốc gia có trình độ phát triển càng cao thì đóng góp của thuế vào ngân sách nhà nước càng chiếm tỷ trọng lớn. Tại Việt Nam, trong giai đoạn 1996-2000, thu từ thuế và lệ phí chiếm khoảng 60% tổng thu ngân sách nhà nước , và hiện nay thì tỷ lệ này đã lên tới 96%. (6)
Trước khi thuế GTGT ra đời, thì thuế nhập khẩu và thuế doanh thu là loại thuế mang lại nguồn thu lớn nhất cho ngân sách nhà nước. Nhưng thuế giá trị gia tăng từ khi ra đời cho đến nay đã chứng minh được vai trò quan trọng của nó. Đây là một sắc thuế tiên tiến, được nhiều quốc gia phát triển trên thế giới áp dụng và đã áp dụng rất thành công. Bản chất của sắc thuế này, đúng như tên gọi của nó, là loại thuế chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ. Do vậy, thuế giă trị gia tăng, tự thân nó là một loại thuế có độ chính xác, hợp lý, khoa học và quan
trọng là nó khắc phục được nhược điểm lớn nhất của thuế thu nhập doanh nghiệp trước kia là hiện tượng thuế đánh chồng lên thuế. Đồng thời khuyến khích được hoạt động xuất khẩu của những doanh nghiệp trong nước cũng như đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Thực tế, từ khi áp dụng Luật thuế GTGT ở Việt Nam, sắc thuế này đã trở thành sắc thuế mang lại nguồn thu lớn nhất cho ngân sách nhà nước, hàng năm đóng góp gần 20% vào tổng thu ngân sách. Trong xu thế hiện nay, khi các nền kinh tế đang hội nhập mạnh mẽ vào một nền kinh tế toàn cầu hoá và nhất là sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO đang tới gần thì việc phải thực hiện lộ trình cắt giảm thuế nhập khẩu là không thể tránh khỏi và khi đó áp lực thu ngân sách nhà nước đặt lên thuế GTGT. Hiện nay thuế nhập khẩu đang chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng thu ngân sách nhà nước (khoảng 13%). Như vậy, sau khi ra nhập WTO, nguồn thu thuế chủ yếu của ngân sách Chính phủ là từ thuế GTGT.
Tuy nhiên việc áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay đang gặp phải những bất cập cần nhanh chóng tháo gỡ. Thuế GTGT cũng giống như các sắc thuế khác là mang lại lợi ích cho Ngân sách nhà nước và ngược lại, nó lại đi ngược lại lợi ích của doanh nghiệp. Vì vậy, tình trạng thất thu thuế là tất yếu. Vấn đề chỉ là làm thế nào để hạn chế và kiểm soát tình trạng đó một cách tối đa. Đều đó phụ thuộc vào một cơ chế, chính sách thuế hợp lý. Mặc dù vậy, một hệ thống thuế tiên tiến được áp dụng hiệu quả ở những nước phát triển không hẳn là cũng có thể áp dụng thành công ở Việt Nam - một nền kinh tế mới chuyển đổi, hệ thống luật pháp chưa đồng bộ và chưa chặt chẽ. Hơn nữa, trong giai đoạn này các chủ thể kinh doanh ở nước ta còn gồm nhiều thành phần phức tạp, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( chiếm hơn 90% tổng số các doanh nghiệp Việt Nam). Không phủ nhận hoàn toàn vai trò của các thành phần kinh tế này nhưng thực tế ý thức chấp hành pháp luật của các doanh nghiệp thuộc thành phần này còn kém do nhiều ảnh hưởng của chế độ kinh tế trước đây. Vì vậy, trong những năm qua, bên cạnh những ưu điểm của luật thuế GTGT thì nó cũng bộc lộ những khiếm khuyết cần phải sửa đổi cho phù hợp với những điều kiện của Việt Nam. Trong thời gian mấy năm gần đây, các phương
tiện thông tin đại chúng liên tục đưa tin về những vụ gian lận thuế GTGT và quy mô của những vụ gian lận này rất lớn, gây thất thoát cho nhà nước hàng trăm nghìn tỷ đồng.
Theo thống kê thì số lượng các vụ gian lận và trốn thuế GTGT liên tục gia tăng kể từ khi áp dụng Luật thuế GTGT ở Việt Nam. Năm 1999, ở nước ta chỉ phát hiện 3 vụ vi phạm về thuế GTGT, năm 2000 con số này đã lên tới 17 vụ, năm 2001 là 64 vụ, 5 tháng đẫu năm 2002 phát hiện 22 vụ và tính đến hết tháng 8 năm 2002 đã phát hiện 147 vụ vi phạm với tổng số tiền bị chiếm đoạt khoảng 480 tỷ đồng. Trong số đó, đã khởi tố 46 vụ, xử lý hành chính 25 vụ, các vụ còn lại chưa có kết quả điều tra (7 ) và hiện nay tình trạng gian lận thuế GTGT đã tăng lên rất nhiều và vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Cơ quan nhà nước. Tình trạng này không những làm thất thoát ngân sách nhà nước mà còn ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và tăng trưởng của nền kinh tế.
Hiện nay tại Việt Nam tồn tại hai phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp tính trực tiếp và phương pháp khấu trừ. Nhưng phần lớn các doanh nghiệp hiện nay đều tính theo phương pháp khấu trừ. Theo phương pháp này, thuế giá trị gia tăng mà doanh nghiệp phải nộp được tính theo công thức sau đây:
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Nếu số thuế GTGT đầu ra > số thuế GTGT đầu vào thì doanh nghiệp được khấu trừ số thuế GTGT đầu vào và phải nộp khoản chênh lệch còn lại.
Nếu số thuế GTGT đầu ra = số thuế GTGT đầu vào thì doanh nghiệp không phải nộp thuế nữa.
Nếu số thuế GTGT đầu ra < số thuế GTGT đầu vào thì doanh nghiệp được hoàn lại khoản thuế chênh lệch.
Số thuế đầu ra được doanh nghiệp viết trên các tờ hoá đơn bán hàng, số thuế đầu vào được viết trên hoá đơn mua vào, hoá đơn này được một doanh nghiệp khác
cấp cho. Tất cả các hoá đơn đầu vào hay đầu ra đều do các doanh nghiệp mua và tự viết.
Chính từ đặc điểm này mà các doanh nghiệp có thể gian lận thuế GTGT.
Theo công thức trên thì doanh nghiệp làm sao tăng được số thuế đầu vào càng cao càng tốt, và ngược lại tìm cách giảm được số thuế đầu ra. Số thuế này lại được thể hiện ngay trên hoá đơn, vậy thì các doanh nghiệp chỉ cần điều chỉnh được các con số thì họ có thể gian lận thuế của nhà nước một cách dễ dàng. Thực tế có rất nhiều doanh nghiệp có thể “phù phép” các con số bằng cách ghi tăng hoá đơn đầu vào, giảm hoá đơn đầu ra, hoặc viết khống hóa đơn đầu vào, không xuất hoá đơn bán ra để làm sao số thuế đầu vào được khấu trừ thật cao và số thuế đầu ra thật thấp. Thực tế cho thấy rất nhiều doanh nghiệp đã tìm cách gian lận thuế GTGT và gây thất thoát rất lớn cho nhà nước. Một kẽ hở rất lớn mà chúng ta có thể nhận thấy trong hệ thống chính sách của nhà nước đó là cơ chế hoàn trước kiểm sau, nghĩa là doanh nghiệp cứ nộp hồ sơ xin hoàn thuế, cơ quan thuế xem xét số liệu rồi hoàn thuế cho doanh nghiệp nếu trong 3 tháng liên tục số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra, sau đó cơ quan thuế mới rà soát lại các hồ sơ có dấu hiệu gian lận, nếu phát hiện gian lận khi đó mới truy thu hoặc xử lý sai phạm. Nhưng thường thì khi các doanh nghiệp đã gian lận thuế, nhất là những doanh nghiệp gian lận những khoản thuế khổng lồ của nhà nước thì việc truy thu thuế là rất khó khăn.
Trước tình hình hiện nay, Việt Nam đang chuẩn bị những thủ tục cuối cùng để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO thì vấn đề giải quyết được vấn nạn về gian lận thuế GTGT và hoàn thiện cơ chế quản lý thuế GTGT đang đặt ra rất cấp bách cho toàn bộ nền kinh tế, đặc biệt là các cơ quan quản lý nhà nước.
II. Những hành vi gian lận thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam hiện nay
Hiện nay, trước một cơ chế quản lý lỏng lẻo, hệ thống luật pháp còn có nhiều lỗ hổng, các doanh nghiệp Việt Nam đang sử dụng rất nhiều thủ đoạn để chiếm đoạt tiền thuế của nhà nước.
Như đã nêu ở trên, hoá đơn chứng từ có vai trò rất quan trọng trong việc thu và quản lý thuế GTGT. Nhà nước sử dụng hoá đơn như một công cụ trong việc thu
thuế, quản lý tài chính, đảm bảo công bằng xã hội trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Ngân sách nhà nước, chống tham nhũng, góp phần xây dựng trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực tài chính. Hoá đơn cũng là một phương tiện góp phần thu đúng chính sách, thu đủ số thuế phải thu, thúc đẩy các cá nhân, tổ chức sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ và giúp việc thực hiện hạch toán kinh tế và chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ đi vào nền nếp. Ngoài hoá đơn, hiện nay nhà nước đang quy định sử dụng một số chứng từ quan trọng có giá trị tương đương như hoá đơn, đó chính là các bảng kê hàng bán lẻ, bảng thu mua hang nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến và đất, đá, cát sỏi, phế liệu không có hoá đơn.
Vai trò của hóa đơn quan trọng như vậy nên nếu quản lý việc sử dụng hoá đơn không tốt sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến Ngân sách nhà nước sau đó là tác động đến toàn bộ nền kinh tế. Thực tế đã cho thấy một vấn nạn đang diễn ra trong khấu trừ và hoàn thuế GTGT bắt nguồn từ hoá đơn và bảng kê hàng hoá, dịch vụ. Cụ thể trong phần này, người viết giới thiệu với độc giả các hình thức gian lận chủ yếu của các doanh nghiệp gồm: sử dụng hóa đơn khống, lập hồ sơ xuất khống, bán hàng không lập hóa đơn và không kê khai doanh thu và các hình thức gian lận khác.
1. Sử dụng hoá đơn khống
Chiêu thức sử dụng hoá đơn khống để gian lận thuế GTGT rất phổ biến ở nước ta vì cách thực thực hiện đơn giản mà cơ quan nhà nước lại khó phát hiện.
Theo quy định của nhà nước thì khi xuất bán hàng hoá mới xuất hoá đơn, nhưng thực tế lại tồn tại những giao dịch ảo mà vẫn xuất hoá đơn, nghĩa là không có hành vi mua bán thực tế nhưng vẫn xuất hoá đơn gọi là hoá đơn khống.
Trên lý thuyết thì luật đã quy định rất chặt chẽ rằng mỗi doanh nghiệp khi đăng ký kinh doanh với cơ quan nhà nước thì mới có quyền mua hoá đơn GTGT. Mỗi lần mua hoá đơn GTGT cũng phải đăng ký số lượng mua và cơ quan thuế sẽ lưu số liệu này vào hồ sơ quản lý của mình. Khi doanh nghiệp đến nộp thuế sẽ phải nộp liên 1 của các hoá đơn xuất bán này và lúc đó cơ quan thuế sẽ đối chiếu số lượng hoá đơn đã bán cho doanh nghiệp với số hoá đơn doanh nghiệp nộp lại. Và hoá đơn đầu ra
của doanh nghiệp này sẽ là hoá đơn đầu vào của doanh nghiệp kia. Khi đó việc đối chiếu sẽ hoàn toàn chặt chẽ.
Tất cả những quy định đó đều hoàn hảo trên lý thuyết và nó cũng sẽ hoàn hảo trên thực tế nếu có một cơ chế quản lý tốt, một bộ máy làm việc có chuyên môn trình độ và ý thức chấp hành tốt. Nghĩa là kiến thức thượng tầng phải đi đôi với cơ sở hạ tầng, khi cơ sở hạ tầng chưa tốt thì không thể đi đôi với một kiến trúc thượng tầng hiện đại. Đây chính là một bất cập mà các nhà hoạch định chính sách không nhìn ra được khi soạn thảo về luật thuế GTGT áp dụng tại Việt Nam.
Về phía doanh nghiệp họ đã thực hiện hành vi gian lận như thế nào?
Trước hết để viết được hoá đơn khống thì doanh nghiệp cần phải có hoá đơn trước đã, mà phải là hoá đơn hợp lý, hợp lệ. Theo quy luật thị trường thì có cầu ắt sẽ có cung. Một ngành kinh doanh mới ra đời nhưng đã rất phát triển, đó là “kinh doanh” hoá đơn. Theo luật doanh nghiệp Việt Nam, nếu một doanh nghiệp được thành lập theo đúng pháp luật thì doanh nghiệp đó sẽ có một mã số thuế, được mua hoá đơn GTGT tại các cơ quan thuế của nhà nước. Vì thế mà đã có rất nhiều doanh nghiệp thành lập ra chỉ để kinh doanh hoá đơn GTGT, còn gọi là doanh nghiệp “ma”. Các doanh nghiệp này không có bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà chỉ lấy tư cách pháp nhân để buôn bán bất hợp pháp các chứng từ hoá đơn. Hiện nay, tình trạng các doanh nghiệp thành lập kiểu này là rất nhiều và thực hiện việc buôn bán hoá đơn với số lượng càng ngày càng lớn, làm thất thu ngân sách nhà nước hàng trăm nghìn tỷ đồng. Có thể kể ra đây rất nhiều trường hợp gian lận thuế GTGT bằng hình thức thành lập doanh nghiệp ma để mua bán hoá đơn, sử dụng hoá đơn khống nhằm chiếm đoạt tiền khấu trừ và hoàn thuế của nhà nước.
Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể có hoá đơn bằng cách in hoá đơn giả hoặc sử dụng những hoá đơn mà doanh nghiệp đã báo mất.
Thực tế tại nước ta hiện nay có rất nhiều vụ việc gian lận thuế GTGT bị phát hiện và quy mô của những vụ việc được phát hiện ngày càng lớn và tinh vi hơn thể hiện mức độ nghiêm trọng của loại tội phạm nguy hiểm này. Dưới đây chỉ là một số trong rất nhiều vụ việc mà người viết thu thập được trên các website, báo chí.